TRẦN BĂNG KHUÊ
1.
Hoàn cảnh này, ngay tại nơi này. Có một lí do nào đó khiến tôi nghiễm nhiên cho rằng, chúng đã thực sự biến mất trong những ánh nhìn mà tôi từng cố tình lưu nhớ từ vài tầng kí ức được xếp lớp rất kĩ càng.
Minh họa: Nhím
Tôi cất giấu tất thảy những gì liên quan đến chúng; dù chỉ là một lá thư viết tay đã ố vàng màu mực tím hay một con hạc đỏ hồng mang vác nặng trĩu niềm tin và hi vọng như kiểu trẻ trâu ngây thơ vẫn thường mơ mộng về một thiên tình sử.
Nhiều lần, tôi muốn cất lên tiếng gọi này, để nó vang động hẳn trong tâm thức tôi vĩnh viễn. “Những mùa vàng. Những mùa vàng. Hỡi những mùa vàng xanh xao trong bầu trời hoang tưởng”. Mắt tôi dường như đang dần mờ nhòe, hoặc có thể đã bị đánh lừa bởi những ảo giác về thứ óng ánh lấp lánh sắc vàng trải đều đặn dưới chân. Những tầng lá mục khoe cái đẹp cuối cùng của nó khi không còn xanh mơn mởn nữa. Tôi mãi mê đuổi theo việc niệm suy về sự tồn tại, về sự sống và cái chết của cây cỏ, hoa lá, phút chốc không còn để ý đến cơn váng vất trên đầu mình sáng sớm hôm nay. Một vệt nắng nhỏ xíu, xuyên chiếu vào mắt tôi, luồn sâu trong những miền tối. Thăm thẳm gió. Thăm thẳm vực. Thăm thẳm biển sâu. Thăm thẳm tôi dạt trôi vĩnh viễn.
Vẫn chưa đi đến cuối con đường, men lên đồi cao. Thành phố sầm uất bị tôi bỏ rơi lại phía sau lưng. Thành phố cũng lưng lửng buồn như một cái lòng chảo sâu hóm miền thung lũng. Tôi lại tiếp tục dợm bước trên những thảm lá mục, tiếp tục dạt trôi theo chiều suy tưởng đang leo dốc. Tôi không thể nào thoát khỏi những ám ảnh của mùa vàng. Chúng hiển hiện ở ngay thời điểm mà khả thể tôi xuất hiện. Hãy nhìn xem, đừng mở mắt, nhưng hãy cố nhìn xem bằng tâm thức tỉnh táo sắc bén. Mùa vàng ở đó. Những mùa vàng rải thảm. Từ chân trời đến mặt đất.
2.
Những mùa vàng bị chôn sâu dưới thảm lá mục ruỗng.
Và hẳn nhiên, chúng cũng đã bắt đầu chơm chớm chuyển đổi như một dấu hiệu quen thuộc đến nỗi tôi có thể dễ dàng nhận thấy ngay lập tức. Dưới gót chân, dưới những gốc cây bị người ta quết vôi và đánh dấu. Những đám mùn mục ruỗng từ thân, cành, hoặc hàng loạt lá chết. Như người. Xác lá. Xác người. Xác của đám dế đồng vừa mới nhảy lên khỏi bờ ruộng, lạc vào thành phố mùa vàng, chực chờ được nuốt trọn ánh trăng tan trên mặt nước. Lấp lánh. Lấp lánh. Huyễn hoặc cõi mộng mê lạc lõng.
Chỉ là chờ cái chết. Tất thảy chúng ta đều phải đợi cái chết. Đợi trong nỗi hân hoan. Đợi trong nỗi cô đơn. Những mùa vàng thường khiến chúng ta lạc lối vô thức. Tôi cũng đã từng đi lạc giữa những mùa vàng đầy mộng ảo ở con đường đến trường nào đó. Bây giờ, tôi lại đi lạc giữa thế gian. Đấy, nơi đây, chính nơi mà người ta rủ rê nhau đắp xây cái chết bằng những mùa vàng rệu rã, mệt mỏi. Giả thử, không ai làm gì để chứng tỏ sự sống, thì cái chết liệu có buông tha và biến mất vĩnh viễn khỏi thế giới đầy huyễn hoặc này?
Chẳng một ai rảnh rỗi để mô tả cho tôi về chúng nữa, khi tôi quyết định bỏ bê và hờ hững đạp những vết giày lên lưng nó, mặt nó; cố tình tạo ra thứ âm thanh người ta đặt tên chính xác bằng hai từ: “tan vỡ” đến quen thuộc, không hề thấy nhàm chán mỗi ngày, mỗi mùa. Hệt như thiên tình sử của tôi vậy. Chúng chết rồi. Cái chết của chúng lảo đảo bật dậy từ bóng tối, rời khỏi bóng tối, chẹn đường tôi, không để tôi bước qua ranh giới nhạt nhòa phát lộ những điều huyễn hoặc ảo tưởng. Cái chết của chúng những mong điều gì đó bất ngờ như việc người ta vẫn nheo nhéo về sự hồi sinh yếu ớt. Vậy mà, sáng nay, tôi đã thấy chúng sống lại. Hồi sinh, dưới ánh nắng mặt trời chói gắt. Và lặng lẽ nằm dưới những gốc cây mùa thu, nằm dưới chân tôi, nằm dưới ánh mắt hờ hững của tôi. Đợi chờ rêu phong.
3.
Tôi chẳng còn nhớ gì về những mùa vàng cũ kĩ. Kể cả việc, tìm kiếm một chút vết tích thôi, cũng thật mong manh. Thiên tình sử của tôi đã chết. Những cánh hạc đỏ hồng đã bị tôi đốt hết. Những dòng thư viết tay lem nhem màu mực tím cũng đã mờ nhòe hoen ố, như những mùa vàng này vậy. Bây giờ, tôi chỉ mơ những màu sắc non tơ hay rạng rỡ tươi thắm, hoặc u ám xám đen trên một con phố Két, trên một cánh đồng Két, kể cả trong một cửa hiệu quần áo cũng mang tên Két ở bên kia đường. Họ vừa gắn bảng giá sale tất thảy những gì trong cửa hiệu hiện có. Vậy thì, tôi có nên mộng mơ thêm nữa về những mùa vàng cũ kĩ trong quá khứ hay đưa họng súng đen lên bóp cò và thổi khói bay đi như một tay cao bồi chuyên nghiệp miền viễn tây cho vừa lòng tôi lúc này?
Nhưng, hẳn nhiên không phải thế đâu. Tôi chẳng cần tình yêu hoặc một vài niềm vui hời hợt an ủi. Hiện thời của tôi bị vùi lấp trong một đống phế thải dồn dập từ rất lâu rồi. Càng lúc tôi càng thấy nó cao ngút tầm mắt mình chẳng thể nào kiểm soát nổi. Tôi chẳng cần niềm vui. Hẳn là niềm vui chẳng phải thứ gì đó cao sang, rạng rỡ lắm đâu. Cảm xúc chỉ mang tính nhất thời. Chúng sẽ lụi tàn sớm thôi và sau đó vẫn là cái chết. Không ai/không gì có thể tránh khỏi cái chết. Rõ ràng thế. Ấy vậy, nhiều kẻ vẫn chẳng chấp nhận cái chết. Nhiều kẻ mơ về sự bất tử. Bất tử nằm trong đáy địa ngục. Nếu dám đánh đổi tất thảy mọi thứ sẽ được bất tử. Đơn giản lắm.
Những cái chết luôn luôn hiện hữu dưới mỗi tầng lá xuyên thủng bầu trời. Những cái chết rong chơi trên mặt nước mỗi đêm sâu chìm ngập trong bóng tối. Tôi biết, dù rằng có khi chúng đang xanh tốt ngời ngời sức sống đó, nhưng rồi sẽ đến lúc nó rơi rớt dưới từng gót chân vô tình. Tôi mặc định rằng mình đã ngắt chùm hoa sữa non thơm từ trên cành cây xuống vào cái đêm hôm ấy. Và, đó là lúc cái chết đến. Cái chết của một bông hoa sữa non thơm. Cái chết của cành, cây, gốc rễ. Những cái chết không thể tách lìa khỏi sự tồn vong bất định của thế giới này.
Cho đến bây giờ, thi thoảng tôi vẫn thấy nó sống động, buông tuồng sự quyến rũ ra bên ngoài lớp áo váy màu trắng, kiểu như khoe khoang khiết tính hiếm hoi thành thật. Chỉ khác, đêm qua, sau cơn bão số mười mấy, tôi đã nghe hàng loạt tiếng súng đạn lên nòng. Có thể đó chỉ là sự tưởng tượng, mà tôi ngỡ như là thật. Tôi đã nằm mơ về một cuộc rượt đuổi kì quặc. Thiên tình sử của tôi đã lắp đạn lên nòng và đuổi bắt tôi trên những cung đường lạo xạo thứ lá mục ruỗng sắp chết.
4.
Sáng nay, trời quang, mây tạnh. Tôi vẫn theo thói quen, rời nhà để đi bộ, men theo con đường lên đồi, đạp chân lên những tầng lá vàng mục. Tôi cầm theo một con hạc đỏ vừa mới mua ở một nghệ nhân gấp giấy dưới phố. Tôi chỉ lấy mỗi con hạc đỏ, và vân vê nó suốt đoạn đường lên đồi. Con hạc thật đẹp. Những thiên tình sử bi lụy đều sống hoặc chết bởi vẻ đẹp kì lạ ẩn giấu này. Nắng trải đều. Mùa vàng say lảo đảo dưới chân tôi. Bất giác, tôi nghe đâu đó, trong không gian tĩnh mịch chỉ có hoa cỏ và chim ca, vang lên tiếng gõ đều đặn của chiếc búa sắt đập vào khoảng không. Chúng hồn nhiên vỗ lên tai tôi từng nhịp một, nhức buốt. Chúng hệt như một bản nhạc vừa lạnh lùng vừa réo rắt, đổi cung bậc liên tục, hòng kéo tôi trở về thực tại, ngắm nghía, nâng niu thiên tình sử đã bị tôi chôn vùi dưới những tầng lá mục ruỗng.
Những buổi sáng khác, thức giấc mệt nhoài trong căn phòng bê tông chật chội, khiến tôi luôn luôn dưỡng nuôi ý nghĩ về vài cuộc chạy trốn. Ngay cả khi tôi còn nằm ườn và trùm chăn kín mít ở trên giường. Dường như, có giọng nói nào đó vẫn đang thúc giục tôi, phải chạy trốn thôi. Tôi phải chạy trốn khỏi nơi đã sinh ra thiên tình sử ấy. Tôi biết, những mùa vàng rồi sẽ bắt đầu loang lổ dần dần trên từng cung đường, từng cánh cổng, từng mép vỉa hè, từng dòng sông, từng con đê làng, từng ao bèo sen súng úa lá phơi giữa cánh đồng của tôi, trong quá khứ xa xôi. Phải chạy trốn thôi. Tất cả họ, đấy, những kẻ lạ và quen, hoặc gần gũi như một thiên tình sử trong kí ức ướt nhòe màu mực tím, họ sẽ đuổi theo tôi. Họ đi rồi lại dừng, dừng rồi tiếp tục đuổi theo sau lưng tôi không biết mệt mỏi.
Sáng nay, tôi không lên đồi, bỏ lại thành phố sau lưng để ngắm nghía những mùa vàng với dòng tâm tưởng hoài cổ. Tôi nằm im trong một bức tường, không đọc sách, không lướt web, không gì cả, chỉ nghe mỗi đường ray đều đặn lướt qua. Tôi tưởng tượng đến một con phố tối nào đó ở London. Nơi sự sống và chết lẫn lộn, nhưng rõ rệt, không mờ nhòe như sương mù. Tiếng còi tàu lúc xa lúc gần. Chúng đang tiếp tục một cuộc phiêu lưu giữa dòng thời gian. Tôi vẫn còn nằm ườn trên giường và tưởng tượng về những mùa vàng chết dẫm quen thuộc bám riết thân phận héo hon đầy đủ xác thịt lẫn niềm mẫn cảm hân hoan, chỉ để nghĩ về sự tồn tại của chính mình khi rời bỏ một thiên tình sử.
Rồi bất giác, tôi quyết tâm chuồi chân khỏi giường. Dù sao, tôi vẫn thích rời đi, hẳn chỉ là việc đi dọc một cung đường cũ kỹ, đạp lên những tầng lá vàng mục ruỗng. Có thể ngay lúc ấy, ý nghĩ chạy trốn sẽ không bám riết lấy tôi nữa. Tôi biết thế, vì rằng với tôi chạy trốn cũng có nghĩa là chết. Những mùa vàng nhấp nháy trong nắng, nhắc nhở tôi về một thiên tình sử tháng ba đã chết.
5.
Anh ngồi tựa gốc cây long não, nằm ngay vỉa hè đối diện một nhà tu kín. Đôi mắt anh không có nắng. Chúng nhợt nhạt một màu xám lạnh buốt như băng tuyết không bao giờ tan. Buổi sáng mùa đông dù ướt đẫm sương vẫn trong veo mắt anh. Chúng không có màu xám buồn như đôi mắt của nàng. Anh đến nơi này biết bao lần, chỉ để ngồi xuống gốc cây long não vào những ngày đông buốt lạnh, và ngắm những tầng lá thủng trên đầu. Sương tan, một chút nắng khe khẽ lọt qua kẽ lá. Vừa đủ để anh mường tượng bầu trời ở quê anh đang lặng lẽ chơi trò xâu kim một cách buồn tẻ và chán ngắt. Anh không có hứng thú trải nghiệm những khoảnh khắc an lạc này. Anh chỉ muốn hồi tưởng về một thiên tình sử, về một cánh hạc hồng đỏ anh lỡ tay gấp dang dở cho nàng.
Thi thoảng anh gắng ngước mắt nhìn lên. Bầu trời tựa hồ mảnh lưới đã bị người ta cắt thủng dần dần, và sau đó chúng toang hoác trống trải như lồng ngực anh lúc này. Dưới gốc cây long não. Tất thảy mọi hiện thể đều rõ ràng như một tạo khối chiaro và oscuro của nghệ thuật hội họa Ý. Anh chợt nhớ ra, hình như anh đã rời bỏ những mùa vàng từ khá lâu rồi để lang thang trong lòng thành phố này, anh rời bỏ cả những chiếc thuyền ánh bạc nơi quê anh để tìm kiếm những ánh bạc khác ở đô thành xa hoa.
Anh đã không tìm thấy.
Mọi hiện cảnh trước mắt anh chỉ là một dải băng màu xám vắt ngang trời chiều khi anh ngồi xuống nơi nào đó trong dáng vẻ mệt mỏi thất thểu. Anh bỗng nhớ quê, nhớ biển, nhớ những con thuyền căng buồm no gió ngoài khơi. Anh nghĩ, chẳng thể nào bắt gặp thứ tình yêu kì lạ bằng nơi đã chôn giấu linh hồn anh.
Ở đâu, anh cũng bắt gặp những mảnh lưới. Chúng giăng mắc khắp mọi nơi. Như mạng nhện. Chúng dệt trời chiều thành bức tường thép gai ngay tại tòa thánh thiêng liêng giữa lòng phố thị, chúng dệt thành tấm lưới khổng lồ chụp xuống bờ bãi, nơi rất mực hiền lành yên ả của quê anh. Những tấm lưới chuyển dần sang màu ráng đỏ pha sắc mặt trời lẫn lộn giữa xác cá phơi trắng bụng như ánh của đêm trăng lạnh lẽo.
Cuối ngày làm việc, trở về nơi trú ẩn là căn phòng trọ ngay tại một thành phố lớn, anh lại tiếp tục hồi tưởng về những mùa vàng kì lạ trong kí ức. Nhưng, hệt như một cơn gió vô tình vậy, chúng biến mất, khi anh chưa kịp chạm tay vào thứ sắc màu đó. Anh thở dài, nằm xuống chiếc giường cũ kĩ sột soạt tiếng mọt trong những thanh dằm gỗ, nhắm mắt lại, và mơ. Anh mơ về những con hạc đỏ hồng, anh gấp dang dở. Anh mơ về đám lá mục ruỗng kêu lạo xạo dưới chân một ai đó vừa quen vừa lạ. Anh mơ về những ngọn đồi cao, và xa tít tắp. Nhưng, cuối cùng thứ mà anh thấy trong giấc mơ vẫn là những mắt lưới.
Ngoài những mắt lưới ra, anh chẳng còn nhìn thấy gì khác nữa. Anh ngắm nghía đám mắt lưới vô hình vây bủa tứ phía, lòng nặng trĩu. Giá sự nặng trĩu này là những khoang thuyền đầy nắng, lấp lánh nụ cười của người đàn bà và những đứa trẻ anh yêu mỗi lần anh trở về từ đại dương mênh mông kia. Quê anh là nơi có những khoang thuyền buồn, rũ rượi. Anh chợt thấy lòng thuyền rỗng tuếch nhìn anh chế giễu: “mẹ thiên nhiên đang nổi giận, biển chẳng cho không ai một thứ gì”. Anh lắng nghe điều đó, những tiếng nói rì rầm nấp trong sóng. Mỗi lần mơ về lòng thuyền và những mắt lưới, anh lại quên mất nàng, quên mất thiên tình sử đầy hồi ức mà anh tựa vào nó để linh hồn anh tồn tại.
Đó chỉ là một giấc mơ.
Âm thanh nhộn nhịp của một buổi sáng mới đã bắt đầu rối rít thúc giục. Anh bật dậy, nhìn quanh quất nơi trú ẩn tạm bợ của anh, rồi khẽ kéo tấm che cửa sổ. Nắng đã bắt đầu le lói. Nhưng không phải nắng của những mùa vàng, không phải nắng sớm của biển, khi anh trở về từ đại dương xanh thẳm với một khoang thuyền lấp lánh ánh bạc. Anh muốn về nhà. Ý nghĩ đầu tiên trong một buổi sáng lành lạnh hơi sương cuối mùa đông, chớm xuân. Dường như ai cũng muốn trở về nhà, không phải chỉ riêng anh, nơi này, xa lạ. Hẳn nàng cũng vậy. Thiên tình sử buồn dang dở của anh.
Anh không muốn nằm mơ nữa. Rồi nàng cũng sẽ thế.
Những mùa vàng chói chang ánh sáng, khiến anh thêm mờ mịt nhận thức về sự sống. Anh chưa bao giờ nghĩ đến cái chết. Hoặc nếu có, nó cũng chỉ thoáng qua như một áng mây giễu cợt, dưới hình hài của một gã hề mũi khoằm tay cầm lưỡi hái đang nhảy nhót trên sườn núi và đi dần về phía bóng tối. Nàng thì ngược lại. Nàng luôn thích đùa chơi với những suy tưởng về sự tồn tại của con người, hoặc của chính nàng.
Buổi sáng này, khác hẳn với những buổi sáng trước. Anh thức dậy sớm hơn thường lệ. Nơi anh trú ngụ cũng đều đặn nghe thấy tiếng đường ray nghiến kèn kẹt lúc xa lúc gần. Anh lấy chiếc va li cũ kỹ phủ bụi trên nóc tủ quần áo xuống, ngồi xếp đặt thật gọn ghẽ, rồi rời căn phòng trọ. Anh đi dọc phố, men theo cung đường quen thuộc, đến gần gốc cây long não. Anh ngồi xuống, ngước nhìn một bầu trời trong veo, vài lộc non đã bắt đầu đâm chồi trên nhánh cây long não.
Anh đã quyết định, sẽ không nằm mơ nữa.
Những mùa vàng bao giờ cũng lảo đảo như một cơn say nắng bất thường.
T.B.K
(TCSH349/03-2018)
PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.
HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.