Những mối tình nước mắt của tử tù Lê Quang Vịnh

10:00 15/10/2008
NGÔ MINHLTS: Giáo sư Lê Quang Vịnh, người trí thức Sài Gòn yêu nước bị toà án binh đặc biệt của Chính quyền Sài Gòn kết án tử hình năm 1962 và đày ra Côn Đảo biệt giam trong chuồng cọp, hầm đá, bị khổ sai suốt 14 năm ròng, từ năm 1962 - 1975. Cuộc đời và nhân cách, ý chí kiên cường của người tử tù nổi tiếng này là một pho truyện lạ lùng và hấp dẫn. Nhà thơ Ngô Minh vừa hoàn thành bản thảo tập ký sự “Chuyện tử tù Lê Quang Vịnh”. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc chương nói về những mối tình nước mắt của Lê Quang Vịnh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, trước khi bị án tử hình.

Lê Quang Vịnh có rất ít thời gian để yêu. Vì khi lớn lên anh chỉ lo học, vô tù, ra tù lại đi học và hoạt động cách mạng. Có thời gian rỗi thì đi dạy thêm để kiếm tiền nuôi mình và nuôi em, gánh đỡ nỗi vất vả cho mẹ và chị ở Huế. Rồi tháng 8-1961 anh đã bị địch bắt, bị kết án tử hình. Như vậy anh mất đến 15 năm nằm trong nhà lao Chí Hoà và Chuồng Cọp, hầm đá Côn Đảo, không hề thấy bóng phụ nữ. Đó là đoạn đời trẻ trung nhất, đoạn đời yêu đương mãnh liệt nhất của mỗi đời người. Khi anh ra tù thì đã “tứ tuần”. Dù thời gian ngặt nghèo như vậy, Lê Quang Vịnh cũng có những mối tình nồng ấm lắm, nhưng đầy nước mắt…
Điều đặc biệt là người anh yêu (và yêu anh?) trong những mối tình ấy tên tuổi đều gắn với những sự kiện nổi tiếng, con người nổi tiếng với lịch sử cuộc kháng chiến. Đó là chị Quỳnh Như con của giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, chị Trần Thị Lý, cô gái anh hùng trong thơ Tố Hữu “Em là ai cô gái hay nàng tiên...” và chị Trần Thị Kim Khánh, em gái của anh Trần Trọng Tân, bạn tù Côn Đảo cùng Vịnh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng. Những mối tình đó đan dệt, kết nối, luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của Lê Quang Vịnh cho tới tận hôm nay. Anh rất ngại kể chuyện về những mối tình cũ của mình với tôi. Tôi nghĩ, có lẽ bởi có hiện diện hàng ngày bên anh người vợ thân yêu, luôn chung thuỷ yêu thương anh, hiểu anh, làm cho anh khó nói chăng? Nhưng thơ anh đã mách với tôi về những mối tình. Đặc biệt, chị TrầnThị Kim Khánh, vợ anh, là một người phụ nữ hiểu biết và cảm thông. Chị không hề ngại kể cho tôi những mẩu chuyện về những người con gái mà chồng mình quen thương thời trẻ. Câu chuyện nên chồng nên vợ của anh Vịnh, chị Khánh sẽ được kể ở đoạn sau. Còn phần này xin kể với bạn đọc ba mối tình mà Lê Quang Vịnh gọi là “tình yêu đơn phương” của mình thời đang hoạt động ở Sài Gòn.

Anh Lê Quang Vịnh bước vào tuổi 20 là một chàng trai cao ráo, đẹp trai, học giỏi. Anh tốt nghiệp thủ khoa khoa Toán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, lại là giáo sư trường Petrus Ký, một trường hàng đầu ở miền Nam thời đó (trên cả trường Quốc Học Huế bấy giờ), lương rất cao. Đó là nghề nghiệp, danh tiếng, lương bổng, điều mà bất cứ chàng trai nào cũng mơ ước. Quan trọng hơn đối với phái đẹp, Lê Quang Vịnh là người hiểu biết rộng, lịch lãm, có nhiều biệt tài như viết văn, làm thơ, sáng tác ca khúc, nên tất nhiên rất nhiều cô gái cùng trang lứa để ý, thầm yêu trộm nhớ. Nhưng cuộc đời hoạt động cách mạng của anh đã không cho phép anh giao tiếp rộng rãi với nhiều người phái đẹp. Anh chỉ quen biết những người con gái gắn bó với công việc của mình. Và số phận tử tù của anh đã làm cho những mối tình đó thành những mối tình đớn đau, đẫm nước mắt... 

Khi nghe tin giáo sư Lê Quang Vịnh và đồng đội bị Chính quyền Sài Gòn tuyên án tử hình, nữ thi sĩ Anh Thơ đã đọc báo và “nhặt” được một chi tiết rất đắt giá đăng trên báo lúc đó. Thế là bài thơ Dòng nước mắt ra đời. Bài thơ viết về tâm trạng của một cô gái có mặt trong phiên toà ngụy quyền Sài Gòn xử án Lê Quang Vịnh và “tiểu đội” của anh đêm 23 - 5 - 1962 ấy. Cô gái đứng lẫn trong số người đến dự phiên toà. Không ai để ý. Khi nghe bản án tử hình đối với Lê Quang Vịnh, cô gái đã khóc và không lau, để mặc cho dòng nước mắt lăn hoài trên má:
Em không lau mặc cho dòng nước mắt
Chảy dài, chảy mãi, chảy triền miên
Nhìn anh đó, hiên ngang bất khuất
Trán rạng ngời, mắt chói niềm tin!
… Anh của em ơi người anh thi sĩ
Những ý thơ nào ru thắm tình ta
Những ý thơ nào ước mơ hạnh phúc
Cho chúng mình, cho những đôi lứa vui ca…
Gần 50 năm nay, không ai biết người con gái khóc vì “tình ta”, khóc vì Lê Quang Vịnh đó là ai. Tôi hỏi anh Vịnh nhiều lần. Có thể là chính anh cũng không thể nào biết được. Nhưng cuối cùng anh mới rụt rè tiết lộ:
- Đó là cô Tuyết Ngọc. Năm đó Ngọc là một sinh viên, ở trong phong trào đấu tranh, là một “cơ sở” của mình. Khi phiên toà mở, Ngọc có đến dự, nhưng  mình không nhìn thấy…
- Thế làm sao anh biết đó là chị Tuyết Ngọc?
- Chính Ngọc kể cho tôi. Sau  giải phóng, tôi ra tù về lại Sài Gòn, Ngọc có đến thăm và cho tôi xem bài thơ mà Ngọc đã cắt trên báo và giữ từ mười lăm năm qua như một kỷ vật. Lúc gặp lại tôi, Ngọc cũng khóc ròng. Có thời gian Tuyết Ngọc làm Giám đốc nhà Văn hoá Thiếu nhi Thành phố Hồ Chí Minh. Bây giờ thì Ngọc đã về hưu rồi…
- Anh có thể coi đó là một kỷ niệm về tình yêu?
- Mình với Tuyết Ngọc cùng hoạt động nội thành, nhiều lần cùng nhau đi những chặng đường dài ra “cứ” họp. Chàng trai đi bên cô gái trẻ, ai mà chẳng rung động, xốn xang. Có lẽ Ngọc cũng có tình cảm riêng tư với mình, mà bài thơ của nữ sĩ Anh Thơ là một minh chứng, hay đó chỉ là những giọt nước mắt chảy vì tình đồng chí?

Vâng, cũng có thể đó vừa là tình yêu, vừa là tình đồng chí. Điều đáng tiếc là thời gian hoạt động nội thành đó, cấp trên quy định là không ai được “yêu đương lung tung”, vì sợ bị lộ tung tích, ảnh hưởng đến phong trào cách mạng. Nên dù có tình cảm riêng cũng không ai dám thổ lộ, bày tỏ. Vì thế mà chút tình cảm lứa đôi ấy mãi mãi chôn chặt trong lòng mỗi người!
Khi học ở Huế cũng như khi vào Sài Gòn học đại học, Lê Quang Vịnh hay lui tới nhà của thầy Tôn Thất Dương Kỵ. Gia đình thầy Kỵ cũng coi Vịnh như người trong gia đình. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và bà Huệ Phương có tám người con. Năm gái, ba trai. Nam nữ gì cũng đều có chữ lót là Quỳnh: Quỳnh Diên, Quỳnh Đệ (con trai), Quỳnh Như, Quỳnh Trân,  Quỳnh Diệu (con trai, liệt sĩ) Quỳnh Uyển, Quỳnh Trai, Quỳnh Chi... Tôn Nữ Quỳnh Diên đã vượt tuyến ra miền Bắc từ năm 1954. Vì là con một trí thức yêu nước, có tư tuởng chống Mỹ quyết liệt, nên tất cả các con của thầy Kỵ đều là tham gia phong trào đấu tranh chống Mỹ của tuổi trẻ Sài Gòn, và một số là “cơ sở” mật của Lê Quang Vịnh.

Tôn Nữ Quỳnh Như, tên gọi ở nhà là Ngọc, là một tiểu thư con nhà danh giá, lại xinh đẹp, đài các, biết ăn diện đúng mốt thời thượng. Quỳnh Như ước ao sau này sẽ trở thành một kiến trúc sư, nên sau này chị đã  vào học Đại học Kiến Trúc Sài Gòn. Mỗi lần đến nhà thầy Dương Kỵ, Vịnh đều tìm cách gần gũi, nói chuyện với Quỳnh Như. Hai người rất tâm đầu ý hợp. Nhân có đợt học tập chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, vào dịp Tết, Lê Quang Vịnh đã đưa Quỳnh Như ra căn cứ ở rừng Sở Ớt, Củ Chi cả tuần liền để học tập và để bồi dưỡng kết nạp Quỳnh Như vào Đoàn Thanh niên Lao động. Tết đó hai người ở lại ăn Tết trong căn cứ. Dù khi họp phải bịt hết mặt, chỉ trừ hai con mắt theo nguyên tắc giữ bí mật, nhưng tình cảm hai người đã nồng đượm lắm. Lê Quang Vịnh bảo Quỳnh Như là cô gái mà anh đã mơ được yêu thương. Ngày nào cũng muốn gặp Quỳnh Như. Qua ánh mắt, giọng nói, Vịnh biết Quỳnh Như cũng rất có cảm tình với mình.  Nhưng anh cũng như Quỳnh Như chưa bao giờ thổ lộ, thề thốt với nhau điều gì. Sau này, để giữ niềm thương yêu kính trọng hương hồn người đã khuất, Lê Quang Vịnh vẫn thường bảo với mọi người: “Đó là mối tình đơn phương của mình”. Mối tình đơn phương ấy chỉ còn lại như một vết sẹo hằn trong tim Lê Quang Vịnh, khó mà nguôi ngoai được cùng năm tháng.

Ngay sau khi bị tuyên án tử hình, bị giam ở trong ngục tử hình của nhà lao Chí Hoà, Lê Quang Vịnh đã viết bài thơ “Thư gửi người yêu” rồi tìm cách gửi ra cho Quỳnh Như. Bài thơ như những lời trối trăng mãnh liệt gửi đến người thân yêu nhất trước khi ra pháp trường, bị hành hình trên máy chém:
Em nhớ không ngày ấy còn trong năm sáu mốt
Còn bão tố đầy trời miền Nam đau xót
Trong một khu rừng hoa dại vàng tươi
Ta đón xuân giải phóng với bao người
Dù chẳng được nhìn nhau cho tận mặt
Dù chẳng dám hát ca vì còn kia lũ giặc…
…Em nhớ không em vân vê tà áo mới nông dân
Màu quê hương cho em đẹp bội phần
Đêm giao thừa mình nghe thơ Tố Hữu
Nghe Bác Hồ chúc mừng xuân Tân Sửu…

…Bên máy chém anh vẫn nhìn em bước
Cùng nhân dân đất nước hé môi cười
.    
Hình như gia đình ông bà Tôn Thất Dương Kỵ cũng biết mối tình của Lê Quang Vịnh với con gái mình, nên bao giờ cũng có ý vun vào. Khi Lê Quang Vịnh đã nằm trong Chuồng Cọp Côn Đảo, không biết lấy được địa chỉ Vịnh ở đâu, mà bà Huệ Phương, mẹ Quỳnh Như đã viết cho Vịnh cái thư gửi ra Côn Đảo. Mở thư ra, Vịnh biết ngay là thư bà Kỵ vì bà ký tên thời con gái là Huệ Phương, bức thư viết lóng để che mắt địch: “…đầu mùa hè năm ngoái, chi mai của con bị bứng đi trồng ở lồng Thừa Phủ, đến mùa đông  thì chi mai của con bị trẩy trụi rồi đem nhốt vô cũi Ba Lòng. Giữa năm nay chi mai của con đã tháo cũi xổ lồng bay về rừng xanh núi biếc, phóng khoáng thênh thang…”. Lê Quang Vịnh đọc đi đọc lại bức thư mãi mới “dịch nghĩa” được là bà Kỵ báo tin chị Mai bị bắt năm 1965, rồi bị đày ra Ba Lòng. Năm 1966 đã vượt ngục thành công ra vùng giải phóng. Sau đó bà Huệ Phương còn viết cho Vịnh mấy lá thư nữa, đều gọi Vịnh là “con” rất ấm áp, thân tình.

Năm năm sau khi Lê Quang Vịnh bị bắt, năm 1966, Trần Quang Long, một nhà thơ nổi tiếng của phong trào “xuống đường” đấu tranh của sinh viên Huế, quê gốc làng gốm Bát Tràng, Hà Nội, sinh ra ở Huế, xuất hiện trong phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh Sài Gòn - Gia Định. Trần Quang Long là chàng trai đa tình và làm thơ hay. Những ngày học lớp đệ nhất (lớp 12) ở Trường Quốc Học Huế, Long đã có những bài thơ học trò rất tinh tế: Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón… hay Bước nhẹ nghe em  kẻo động vỡ tơ chiều. Năm 1962, Long thi vào lớp Việt Văn, Đại học sư phạm Huế. Nhưng chàng sinh viên này chẳng mấy chỉ thú học hành. Chỉ thích yêu đương, làm thơ và tranh đấu. Năm 1963, Long cùng sinh viên và Phật tử Huế đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm, anh bị bắt. Mãi cho đến khi Diệm bị giết, anh mới được tha tù. Năm 1964, tốt nghiệp Đại học, Long lại tham gia  làm thơ, viết báo, lại bị bắt. Trần Quang Long có những câu thơ bốc lửa, găm vào trí nhớ thế hệ trẻ Việt :
Con sẽ vót nhọn chông thành thơ
Xuyên vào tim lũ giặc…

Năm 1965, Trần Quang Long được đổi vào dạy học ở Trường trung học Cường Để, Quy Nhơn. Anh đã tổ chức cho cả ngàn sinh viên đi biểu tình và thành lập lực lượng “Bảo vệ Dân tộc Bình định” do anh làm chủ tịch. Cuộc đấu tranh của tuổi trẻ Quy Nhơn bị địch đàn áp dã man. Trong cuộc “xuống đường” ấy, có một học sinh đã cởi tấm áo của mình ra cho thầy  Long đề bốn câu thơ, rồi tất cả học sinh đều ký vào tấm áo xung quanh bài thơ của thầy:
Nghiến răng mà chịu sự đau
Cười trong tiếng nấc hát làu Việt Nam
Máu lai láng, áo rách nhàu
Vẫn vui, vẫn hát, không sầu, không
lo.
Người giữ chiếc áo kỷ vậy ấy là ông Lương Quang Phúc (năm nay 66 tuổi, ở số nhà 71 - Thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định). Với ông Phúc, chiếc áo là dấu tích của một thời tuổi trẻ hào hùng không thể nào quên. Đầu năm 2007, ông Phúc đã trân trọng trao tặng tấm áo lịch sử ấy cho Bảo tàng Tổng hợp Bình Định. Thầy giáo Trần Quang Long bị đánh gãy chân và bị  bắt giam ở bệnh viên quân đội ở Pleiku. Gia đình phải lo lót để cho anh ra tù. Ra tù Long đã chuyển vào Cần Thơ dạy học và trở thành Chủ tịch Hội sinh viên sáng tác Tổng hội sinh viên Sài Gòn, rồi Ủy viên Mặt trận Liên minh Dân tộc Dân chủ Sài Gòn. Ngày 11-10-1968, Trần Quang Long bị trúng bom B52, hy sinh ở “R”, căn cứ của Trung ương Cục Miền Nam ở rừng Tây Ninh. Sau này, nhà thơ Trần Quang Long đã được truy tôn là liệt sĩ. Tỉnh Thừa Thiên Huế đã lấy tên nhà thơ liệt sĩ Trần Quang Long đặt cho một đường phố ở Phường Tây Lộc.

Do tiếp xúc với thầy Tôn Thất Dương Kỵ, nên Long cũng gặp và yêu Quỳnh Như. Quỳnh Như lúc này đang là sinh viên Trường Kiến Trúc Sài Gòn. Đã sáu năm rồi, từ ngày Vịnh bị án tử hình, Quỳnh Như không biết được tin tức gì của Vịnh cả. Ai cũng tin là Vịnh đã bị giặc thủ tiêu. Thế là, đầu năm 1967, Quỳnh Như và Trần Quang Long làm lễ cưới. Sau Mậu Thân, địch phản công, Trần Quang Long thoát ra chiến khu. Địch bắt Quỳnh Như vào tù vì tội hoạt động chống chính quyền trong dịp Tết Mậu Thân. Quỳnh Như sinh con trai ở trong tù. Theo thư dặn của chồng, Quỳnh Như đặt tên con là Thắng, Trần Xuân Thắng. Một năm sau ra tù, chị mới biết tin chồng hy sinh. Quỳnh Như ở vậy nuôi con cho đến ngày giải phóng miền 30 - 4 - 1975.
Mùa hạ năm 1971, ở trong Hầm Đá, Lê Quang Vịnh  bất ngờ nhận được  một lá thư của Quỳnh Như kèm theo bức hình và lá thư nhỏ có mấy dòng chữ mới tập viết của bé Sao (tức Trần Xuân Thắng), con Quỳnh Như, lúc này đã gần 4 tuổi. Lê Quang Vịnh bàng hoàng xúc động. Quỳnh Như hỏi thăm tình hình sức khoẻ Vịnh, khuyên anh cố gắng giữ gìn, rồi kể cuộc sống của mẹ con ở Sài Gòn. Quỳnh Như viết rằng, khi anh bị công an đưa về Sài Gòn sau Tết Mậu Thân em vẫn biết, nhưng không vào thăm anh đuợc… Lá thư vẫn được chị Khánh, vợ anh Vịnh  lưu giữ cẩn thận, thư chữ viết li ti gần bốn trang giấy, nhưng đến hôm nay, đã hơn 36 năm vẫn đọc rất rõ. Tôi rất khâm phục trước việc chị Kim Khánh đã cất giữ, bảo quản những kỷ vật của chồng một cách kỹ càng như vậy. Đó cũng là phẩm chất của một phụ nữ có văn hoá cao. Chị Quỳnh Như hẹn trong thư rằng, lần này chỉ gửi ảnh của bé Sao, còn lần sau “em sẽ chụp  tấm ảnh màu gửi cho anh, để anh biết em bây giờ ra sao!”. Sau đó anh Vịnh còn nhận được vài lá thư nữa của Quỳnh Như. 

Tháng 5 - 1975, khi ra tù Côn Đảo, về lại Sài Gòn, Lê Quang Vịnh có  tìm đến nhà thăm mẹ con Quỳnh Như. Chị vẫn đẹp như xưa. Nhưng đã rắn rỏi hơn, đằm thắm hơn nhiều lắm. Có lúc Quỳnh Như cố tình xin phép ra khỏi phòng để bé Sao lại. Bé Sao sà vào lòng anh Vịnh, nũng nịu: “Bác Vịnh ơi, Bác có thương Sao, thương mẹ Như của Sao không?”. Lê Quang Vịnh xúc động, vuốt tóc bé Sao, nói trong nước mắt: “Bác thương mẹ Như của Sao nhất. Khi bác xuống dưới đất rồi vẫn thương Sao, thương mẹ Như của Sao”. Khi Lê Quang Vịnh đến thăm gia đình ông bà Tôn Thất Dương Kỵ lần đầu tiên từ khi ra tù, cả hai ông bà đều xúc động, mừng rỡ. Thầy Kỵ ồm chầm lấy đứa học trò cưng của mình, tay thầy cứ sờ nắn  bả vai, lưng, như kiểm tra xem bọn giặc tra tấn có làm mất đi cái xương nào của cậu học trò giỏi nhất của mình không. Bà Kỵ rớm rớm nước mắt, đứng ngây người nhìn người tử tù thân thương của mình đã trở về, như trong một giấc mơ. Mãi lâu bà mới nhớ ra, hối hả đi giục mọi người chuẩn bị cơm nước… Thầy Kỵ có lần nói với Vịnh: “Từ lâu vợ chồng thầy coi em thân thiết như người nhà. Bây giờ em đã thoát khỏi ngục tù, vợ chồng thầy mong em sẽ trở thành người nhà vĩnh viễn của gia đình thầy…”. Lê Quang Vịnh hiểu ý muốn bé Sao, hiểu ý của thầy Kỵ, anh suy nghĩ trăn trở bao đêm. Bây giờ nếu anh đồng ý, thì có thể Quỳnh Như sẽ “đi bước nữa”, sẽ “trở lại” với anh. Nhưng còn hương hồn nhà thơ Liệt sĩ Trần Quang Long thì sao? Hơn nữa lúc đó anh đã yêu chị Khánh...

Sau đó Lê Quang Vinh ra Hà Nội học trường Nguyễn Ái Quốc. Thời gian đó Quỳnh Như có lần ra Hà Nội thăm anh và cũng đã biết anh Vịnh đã cưới vợ. Hai năm sau, năm 1978, anh nghe tin chị Quỳnh Như mất vì bệnh xơ gan cổ trướng. Ôi, hình như hai người chưa được ông Tơ bà Nguyệt xe duyên, nên duyên tình chưa thể bén. Âu cũng là cái số “hồng nhan phận bạc” ở đời! Khi tôi viết những dòng này, đọc cho anh Vịnh nghe, anh ngậm ngùi bảo: “Có lẽ Ngô MInh không nên in vào sách chuyện này, vì Quỳnh Như đã không còn nữa!”. Nhưng tôi lại nghĩ, tình yêu của một tử tù nổi tiếng như Lê Quang Vịnh không còn là chuyện riêng tư hai người nữa, mà đã trở thành tài sản tình cảm, tâm linh của đất nước, của bao thế hệ người Việt Nam. Tôi tin hương hồn chị Quỳnh Như cũng chia sẻ những suy nghĩ của tôi…

Trong thời gian hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên ở Sài Gòn những năm 1957 - 1961 của thế kỷ trước, Lê Quang Vịnh còn “quen biết” một người con gái nữa, rất nổi tiếng. Đó là chị Trần Thị Lý. Trần Thị Lý, người nữ chiến sĩ kiên cường của đất Sài Gòn trong bài thơ “Người con gái Việt ” của nhà thơ Tố Hữu:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay  không có tuổi
Mái tóc em đây, hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm dông
Thịt da em hay là sắt là đồng?...
Cuối năm 1958, khi đến thăm chị Trần Thị Lý đang điều trị viết thương do địch tra tấn, hành hạ, ở bệnh viện Việt Xô, nhà thơ Tố Hữu đã xúc động viết nên những câu thơ rất thật, rất thần:
Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt
Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt
Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh…”

Chị Trần Thị Lý quê ở Gò Nổi, Kỳ Lam, bên dòng sông Thu Bồn, Quảng . Hồi đó chị hoạt động bí mật ở Sài Gòn, làm công tác giao liên của căn cứ Khu ủy Sài Gòn ở Củ Chi. Năm 1957, Lê Quang Vịnh vào Sài Gòn để học đại học, anh liền bắt mối tổ chức tham gia hoạt động công khai trong phong trào học sinh sinh viên. Trong một chuyến Lê Quang Vịnh đi họp, chị Trần Thị Lý là người giao liên dẫn đường. Thế là hai người quen biết nhau. Năm 1958, chị Trần Thị Lý bị địch bắt. Địch dùng đủ cực hình tra tấn vô cùng dã man đối với người con gái duyên dáng ấy “điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung”. Giam, tra tấn tàn bạo một thời gian, nhưng không đủ chứng cớ để buộc tội chị Lý, buộc cầm quyền Sài Gòn phải thả tự do cho chị. Chị được tổ chức bí mật đưa sang Nông-Pênh (Cămpuchia) rồi đi tàu bay ra Hà Nội chữa trị vết thương do địch tra tấn. 

Chị Trần Thị Kim Khánh, vợ anh Vịnh đã gặp chị Lý ở Hà Nội năm 1975, tức là Trần Thị Lý 16 năm sau. Chị Khánh kể rằng, Chị Trần Thị Lý là một phụ nữ rất đẹp. Đúng như nhà thơ Tố Hữu mô tả “Em là ai cô gái hay nàng tiên…” trong thơ. Vừa đẹp lại vừa dịu dàng, nhân hậu”. Tuổi tứ tuần mà còn đẹp vậy, chắc lúc trẻ chị Lý là một thiếu nữ xinh đẹp mê hồn. Lê Quang Vịnh là một nhà thơ, máu thi sĩ làm sao mà không bị lay động trước một giai nhân như thế? Đã có một câu chuyện rất lãng mạn và rất thú vị về một  bức ảnh của Lê Quang Vịnh chụp thời trai trẻ.
Sau khi Lê Quang Vịnh và các đồng đội bị toà án ngụy quyền Sài Gòn tuyên án tử hình, các báo ở Hà Nội tới tấp đăng bài phản đối bản án, tố cáo ngụy quyền Sài Gòn đàn áp trí thức, sinh viên học sinh. Nhưng các báo đều không có một tấm ảnh nào của giáo sư Lê Quang Vịnh cả. May thay, lúc đó thủ tướng Phạm Văn Đồng mới nhớ ra là người nữ chiến sĩ Trần Thị Lý đang chữa bệnh ở Hà Nội đã có lần khoe với mình tấm ảnh Lê Quang Vịnh. Nhờ chị Lý giữ tấm ảnh, và nhờ trí nhớ tuyệt vời của bác Đồng, các báo đến chỗ chị Lý mượn ảnh. Nhờ đó, ảnh Lê Quang Vịnh mới được đăng lên báo, làm xúc động người đọc cả miền Bắc và trên thế giới. Trong bài “Chuyện một nhà giáo tử tù” của báo Giáo dục - Sáng tạo của Sở Giáo dục - Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, Vi Ân viết: “Bức ảnh ấy là ảnh anh Vịnh chụp cuối những năm 50 thế kỷ trước để làm thẻ sinh viên. Một lần ra bưng họp, Lê Quang Vịnh có mang theo tập ảnh gia đình trong người, trong đó có bức ảnh ấy. Anh Vịnh có đưa cho các bạn gái trong bưng xem. Tấm ảnh đó đã bị (được?) một người “ém nhẹm” cho riêng mình mà anh không hay. Sau đó anh bị bắt…” (số báo ra ngày 4-5-2000). Câu chuyện đó có vẻ rất khách quan và đơn phương lắm.

Nhưng điều quan trọng là chị Trần Thị Lý khi ra chữa bệnh ở Hà Nội đã giữ khư khư tấm ảnh ấy như một báu bật của đời mình. Chị Lý đã có lần khoe với bác Phạm Văn Đồng và cả bác Tôn Đức Thắng rằng, người trong tấm ảnh là “Lê Quang Vịnh, là người yêu của cháu”. Trần Thị Lý đã đề vào sau bức ảnh kỷ niệm câu: “Chờ anh mãi mãi, âm thầm chờ anh - Đạo Tĩnh”. Đạo Tĩnh là biệt hiệu của Trần Thị Lý khi hoạt động ở Củ Chi. Thời gian chị đề câu ấy vào tấm ảnh là tháng 12-1963, lúc đó anh Lê Quang Vịnh bị xử tử hình đày ra Côn Đảo. Một người con gái, có thể yêu mê mệt một chàng trai nào đó, kể cả khi chưa hò hẹn. Dám đề câu “Chờ anh mãi mãi, âm thầm chờ anh”, chứng tỏ tình yêu kiên định dữ lắm. Đó chính là vẻ đẹp của một tâm hồn trong sáng, mãnh liệt, sự cao thượng của một tấm lòng. Anh Vịnh cho rằng, đây là “chuyện” đơn phương, tôi hoàn toàn không  biết gì cả. Ngay cả chuyện tấm ảnh tôi có ở chị Lý tôi cũng không rõ chị có từ bao giờ! Thật là rắc rối! Dù vậy, khi nghe câu chuyện này, tôi vô cùng cảm kích, trân trọng và kính nể đối với chị Trần Thị Lý, người con gái đã có một tình cảm thiêng liêng cao quý ấy.

 Sự tình còn nhiều hấp dẫn và xúc động.  Sau khi thoát khỏi Chuồng Cọp Côn Đảo ngày 1-5-1975, Lê Quang Vịnh được bổ nhiệm làm phó giám đốc Sở Giáo dục Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1975, anh Vịnh được chọn trong đoàn 100 đại biểu tiêu biểu của nhân dân miền ra thăm miền Bắc. Đây là một vinh dự lớn. Sau khi tham quan, gặp gỡ với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Lê Quang Vịnh được mời nói chuyện về đề tài “Côn Đảo - hòn đảo địa ngục” tại cơ quan Ủy ban Trung ương Hội liên hiệp Thanh Niên Việt . Cuộc nói chuyện do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức, diễn ra tại Hội trường lớn của cơ quan Trung ương Đoàn. Hội trường chật ních trên hai ngàn người nghe. Trong số người đến dự nghe cuộc nói chuyện hôm đó có một người phụ nữ xinh đẹp. Đang nửa chừng, khi Ban tổ chức giới thiệu người nói chuyện hôm nay là “Giáo sư Lê Quang Vịnh, tử tù Côn Đảo vừa mới trở về”, người con gái ấy bỗng nhiên tái xám mặt mày, rồi ngất xỉu. Cuộc nói chuyện phải dừng lại. Ban tổ chức phải xin lỗi diễn giả Lê Quang Vịnh, rồi  bế người con gái ra phía sau hậu trường, xoa dầu, bấm huyệt. Khi tỉnh lại, điều chị nói làm mọi người vô cùng ngạc nhiên: “Tôi là Trần Thị Lý và người nói chuyện là Lê Quang Vịnh, người yêu của tôi! Ôi, người yêu tôi đã về!”. Rồi chị lại ngất xỉu, nước mắt giàn giụa. Câu chuyện làm mọi người ngơ ngác, ngạc nhiên.

Đó là một “cú xốc tình cảm” lớn đối với Lê Quang Vịnh. Anh không ngờ mình gặp lại “người quen biết cũ”, trong lúc đã có vợ sắp cưới là Trần Thị Kim Khánh. Câu chuyện hi hữu đó xảy ra khi chị Lý đã yêu một người cháu của cụ Tôn Đức Thắng tên là Tuấn. Khi gặp lại tử tù Lê Quang Vịnh ở Hà Nội, thì chị đã xin lỗi người yêu rằng, chúng ta không thể tiếp tục yêu nhau được nữa! Oái oăm là chị Lý lúc đó lại đang nằm điều trị tại bệnh viện Việt Xô, ngay cạnh phòng mà anh Vịnh đang điều trị. Ngày nào anh Tuấn cũng bới cơm cháo đến cho chị Lý. Bên này, ngày nào chị Khánh cũng mang đồ ăn bồi dưỡng đến cho Lê Quang Vịnh. Thời gian này, tử tù Lê Quang Vịnh kiên gan suốt 15 năm trong lao tù ngục tối của địch, đã phải hoang mang bối rối trước chuyện rắc rối trong tình cảm con người. Anh đã có lần nói với chị Khánh rằng: “Thôi em đừng đến với anh nữa. Đàn bà rắc rối quá!”. Rồi anh lại viết cho Kim Khánh một lá thư dài, thanh minh, năn nỉ. Chị Trần Thị Kim Khánh rất yêu thương anh Vịnh, chị tâm sự: “Tôi đến với anh Lê Quang Vịnh cũng gần giống như Thaia đến với Paven Corsaghin trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Xô Viết N.Ốxtơrốpxki - vì yêu thương, kính trọng, khâm phục chàng trai đã vượt qua quá nhiều thử thách, cam go, đã được trui rèn như thép tôi trong lửa, đã bị mù cả hai mắt, bại  liệt cả hai chân, mà Thaia đã tự nguyện kết bạn đời, và chấp nhận đẩy xe lăn chăm sóc Paven trọn đời. Những người mà anh Vịnh thương, hay thương anh Vịnh trước đây sao tôi thấy nó na ná như những mối tình rất lãng mạn giữa Paven với Tônhia, với nữ chính uỷ Rita làm vậy…”.  

Mối tình nồng nàn Lê Quang Vịnh - Trần Thị Kinh Khánh đã hoá giải được tất cả những rắc rối do thời gian và lịch sử để lại của thời “hậu chiến”. Nghe những câu chuyện ấy, anh Vịnh nhỏ nhẹ nói với tôi: “Đó chỉ là tình yêu đơn phương ấy mà”.  
Sau đám cưới Vịnh - Khánh, trước khi đi chữa bệnh ở Đức, chị Trần Thị Lý đã gặp chị Khánh ở bệnh viện, nắm tay thân tình, rưng rưng nước mắt nói: “Thôi chị đi đường chị, em nhớ chăm sóc anh Vịnh cho tốt nhá ”. Chị Lý sau đó vẫn lấy anh Tuấn cháu họ Bác Tôn Đức Thắng. Khi Đà Nẵng thành lập trường đại học, anh là giảng viên Đại học Bách Khoa Đà Nẵng. Anh Tuấn cũng rất yêu thương chị Lý. Vì tình yêu, anh đã làm hết sức mình để chị thanh thản yên tâm chữa bệnh. Chuyện bức ảnh, chuyện chị Lý ngất xỉu tại cuộc nói chuyện của anh Vịnh về Côn Đảo, anh Tuấn đều biết hết, nhưng anh điềm đạm không nói gì. Anh Tuấn vẫn kiên nhẫn chờ đợi chị Lý lành bệnh. Hai anh chị cưới nhau và có một đứa con gái. Năm 1992, chị mất vì bệnh cũ tái phát ở thành phố Đà Nẵng.

Tình yêu là chuyện riêng của trái tim mỗi người, nhưng nó cũng là chuyện của  đất nước một thời. Thời của một thế hệ tuổi trẻ Việt đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, dấn thân vì sự nghiệp thống nhất Tổ Quốc.
N.M

(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.