THANH HẢI
Hồi ký
Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.
Ảnh: internet
Là một người hoạt động ở miền Nam, cũng như những anh em khác, niềm ao ước được gặp Bác ở trong tôi thật thiêng liêng. Có khi thành chiêm bao. Có khi thấy mình như không thể nào có được vinh dự lớn lao đó. Nhưng niềm mơ ước đó đã thành sự thật.
Sáng 21-10-1962, sau hai ngày đến miền Bắc, chúng tôi được đến gặp Bác... Bác tiếp chúng tôi ở vườn hoa phủ Chủ tịch. Khi chúng tôi ngồi vào bàn thì Bác chưa đến. Lát sau, đúng 7 giờ, thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ về phía Chủ-tịch phủ khẽ nói: “Bác ra!”. Anh Hiếu và tôi cùng nhìn về phía ấy. Từ xa chúng tôi thấy Bác bận bộ áo quần nâu, khoác áo kaki, tay cầm tờ báo. Lúc đó không gian vô cùng trong sáng và im lặng. Tôi nghe rõ cả tiếng sỏi lạo xạo dưới chân Bác. Tôi đứng dậy, ước mong Bác mau đến để ôm chầm lấy. Bác Hồ kính yêu mà tôi chỉ xem qua sách, nhìn qua ảnh, nghe tiếng nói qua đài phát thanh bây giờ đây rồi, đang ôm lấy anh Hiếu, ôm lấy tôi. Tôi cứ ngỡ là đang mơ. Tôi nhìn kỹ từng sợi râu, đám tóc của Bác.
Ngồi vào bàn, Bác hỏi anh Hiếu về chuyện đi thăm các nước. Bác hỏi anh Hiếu đã đi mấy nước, làm việc có mệt không v.v... Sau khi nghe anh Hiếu nói, Bác cười, xoa tay bảo:
- Chú mới đi sáu nước, mỗi nước ở lại một tuần, nửa tháng. Còn Bác đi mười hai nước, mỗi nước ở ba ngày, bốn ngày, nào là đọc diễn văn, hội đàm, mít-ting v.v...
Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ vào tôi và hỏi Bác:
- Bác biết chú này?
- Biết, có đọc rồi.
Bác hỏi tôi có gặp Giang Nam không. Bác bảo Giang Nam viết có tình. Hôm đó chúng tôi được vinh dự dâng lên Bác những tặng phẩm của đồng bào miền Nam - trong đó có tập thơ anh Trọng Tuyến chép bằng tay. Trước khi hy sinh anh Trọng Tuyến có một ước mơ duy nhất là được gửi kính tặng Bác tập thơ viết bằng tay của anh. Ước mơ đó của anh hôm nay đã đạt. Bác cầm tập thơ, hỏi chúng tôi về anh Trọng Tuyến. Khi nghe chúng tôi thưa anh đã hy sinh, Bác lặng đi một lúc.
Hôm gặp chúng tôi, vì là đoàn đại biểu Mặt trận lần đầu tiên ra thăm miền Bắc, nên Bác hỏi nhiều về phong trào đấu tranh, về tinh thần sinh hoạt, chiến đấu của đồng bào, chiến sĩ. Chính trong buổi gặp này Bác đã nói câu nói nổi tiếng làm xúc động hàng chục triệu trái tim chúng ta. Khi chúng tôi dâng lên Bác các tặng phẩm, Bác nhận xong, Bác đưa tay lên trái tim mình:
- Bác chẳng có gì tặng lại cả, chỉ có cái này thôi. Nghỉ một chút Bác nói với một giọng rất xúc động: Miền Nam Việt Nam ở trong trái tim tôi.
Suốt ngày hôm đó và cả mãi mãi sau này mỗi khi nhớ lại câu nói đó tôi cứ bồi hồi mãi. Miền Nam ở trong trái tim Bác, trái tim Bác lớn quá, mênh mông quá, chứa cả bao nỗi khổ đau nhưng cũng bao nhiêu quật cường, anh hùng, chí khí. Miền Nam, nơi cả loài người đang hướng về, nằm trong trái tim của vị anh hùng dân tộc, của Bác kính yêu.
Mấy hôm sau, đến thăm kỳ họp của Quốc hội, chúng tôi lại được gặp Bác một lần nữa. Lần này nghe đâu trước khi chúng tôi vào, Bác điều khiển các vị đại biểu quốc hội lên ngâm thơ vui lắm. Sau khi chủ tịch Trường Chinh đọc diễn văn chào mừng, giáo sư Nguyễn Văn Hiếu đọc đáp từ, các đại biểu quốc hội ra nghỉ ở Phòng Gương. Trong lúc các đại biểu đang vây quanh chúng tôi hỏi chuyện miền Nam thì Bác đến. Bác kéo tôi đến gần bên rồi nói:
- Các chú có biết chú này không? Chú này là miền Nam trọ trẹ đây. (Ý Bác nói người Trị Thiên)
Nói xong Bác cười và bảo tôi ngâm cho Bác nghe một bài thơ. Thật bất ngờ. Tôi đang bồi hồi, xúc động nên không biết đọc bài gì. Bỗng tôi nhớ ra: “Cháu nhớ Bác Hồ”, một bài thơ tôi làm bên bến Ô Lâu. Nhưng ngâm đến câu:
"Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn", tôi quên mất. Bác thấy tôi quên liền ôm tôi hôn.
- Đấy! Hôm nay Bác hôn thật đấy!
Trời ơi, tôi sướng quá và may làm sao một nhà nhiếp ảnh đã kịp ghi lại phút thiêng liêng đó. Đến hôm nay mỗi lần mở tấm ảnh ấy ra tôi vẫn thấy còn như ấm hơi Bác...
Những lần gặp Bác hồi đó, Bác ít đủ có thì giờ để hỏi riêng tôi hay dạy bảo tôi về việc viết lách. Có khi Bác hỏi: Chú viết được những gì? Ở miền Nam chú viết như thế nào? v.v... Nhưng có một lần, Bác nói một câu mà tôi nhớ mãi, lấy làm bài học cho mình. Khi đó Bác tặng anh Hiếu một cuốn Europe (châu Âu) số đặc biệt đăng toàn tác phẩm Việt Nam, trong đó thơ Bác được dịch và đăng ở đầu. Nhân đó tôi cũng muốn khoe với Bác một chút. Tôi thưa:
- Thưa Bác trong này họ cũng có dịch thơ cháu. Tôi tưởng Bác sẽ khen, không ngờ Bác hỏi:
- Ừ chú thì cứ đọc thơ chú, có đọc thơ ai!
Tôi biết Bác có ý phê bình, không nên đề cao mình, không nên chỉ biết có mình mà không đọc tác phẩm, không học hỏi anh em khác.
Được lớn lên trong cuộc chiến đấu ở miền Nam, được rèn luyện trong cuộc chiến đấu đó, do những cảm xúc mãnh liệt đầu tiên mà tôi làm thơ, tôi không ngờ được vinh dự lớn lao là gặp Bác. Tôi vẫn nhớ lần Bác hỏi tôi về chuyện vợ con như một người cha hỏi đứa con trai lớn đi xa về, Bác bảo tôi học Bác gì thì học chứ đừng học chuyện đó. Bác khuyên tôi nên lấy vợ như thế nào. Bác ơi, sao Bác lo cho chúng cháu ân cần, tỉ mỉ thế. Còn Bác? Sao Bác chẳng lo gì cho Bác cả và cũng chẳng cho ai lo gì cho riêng Bác cả.
Bác mất rồi! Những anh chị em làm công tác văn nghệ ở miền Nam, cũng như đồng bào miền Nam ước ao được gặp Bác, nay không thỏa được ước mơ rồi. Tôi nhớ đến những dòng nước mắt của Liên Nam, Thu Bồn, Xuân Hồng, Phan Tứ v.v... hôm truy điệu Bác. Chúng tôi nói với nhau: Phải viết gì? Phải viết gì về Bác bây giờ? Phải viết gì để thực hiện lời di chúc của Bác.
Thưa Bác, cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam anh hùng lắm. Chúng cháu được cách mạng phân công cầm bút, được lớn lên trong thế hệ Hồ Chí Minh vĩ đại, chúng cháu nguyện làm theo lời dạy của Bác:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
đóng góp phần mình vào sự nghiệp giải phóng miền Nam.
T.H
(TCSH42/04&05-1990)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.