Những kỷ niệm vô giá và thiêng liêng

15:23 11/05/2017

THANH HẢI
        Hồi ký

Tháng 10 năm 1962, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc. Lần đó một vinh dự lớn nhất của chúng tôi là được gặp Hồ Chủ Tịch.

Ảnh: internet

Là một người hoạt động ở miền Nam, cũng như những anh em khác, niềm ao ước được gặp Bác ở trong tôi thật thiêng liêng. Có khi thành chiêm bao. Có khi thấy mình như không thể nào có được vinh dự lớn lao đó. Nhưng niềm mơ ước đó đã thành sự thật.

Sáng 21-10-1962, sau hai ngày đến miền Bắc, chúng tôi được đến gặp Bác... Bác tiếp chúng tôi ở vườn hoa phủ Chủ tịch. Khi chúng tôi ngồi vào bàn thì Bác chưa đến. Lát sau, đúng 7 giờ, thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ về phía Chủ-tịch phủ khẽ nói: “Bác ra!”. Anh Hiếu và tôi cùng nhìn về phía ấy. Từ xa chúng tôi thấy Bác bận bộ áo quần nâu, khoác áo kaki, tay cầm tờ báo. Lúc đó không gian vô cùng trong sáng và im lặng. Tôi nghe rõ cả tiếng sỏi lạo xạo dưới chân Bác. Tôi đứng dậy, ước mong Bác mau đến để ôm chầm lấy. Bác Hồ kính yêu mà tôi chỉ xem qua sách, nhìn qua ảnh, nghe tiếng nói qua đài phát thanh bây giờ đây rồi, đang ôm lấy anh Hiếu, ôm lấy tôi. Tôi cứ ngỡ là đang mơ. Tôi nhìn kỹ từng sợi râu, đám tóc của Bác.

Ngồi vào bàn, Bác hỏi anh Hiếu về chuyện đi thăm các nước. Bác hỏi anh Hiếu đã đi mấy nước, làm việc có mệt không v.v... Sau khi nghe anh Hiếu nói, Bác cười, xoa tay bảo:

- Chú mới đi sáu nước, mỗi nước ở lại một tuần, nửa tháng. Còn Bác đi mười hai nước, mỗi nước ở ba ngày, bốn ngày, nào là đọc diễn văn, hội đàm, mít-ting v.v...

Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ vào tôi và hỏi Bác:

- Bác biết chú này?

- Biết, có đọc rồi.

Bác hỏi tôi có gặp Giang Nam không. Bác bảo Giang Nam viết có tình. Hôm đó chúng tôi được vinh dự dâng lên Bác những tặng phẩm của đồng bào miền Nam - trong đó có tập thơ anh Trọng Tuyến chép bằng tay. Trước khi hy sinh anh Trọng Tuyến có một ước mơ duy nhất là được gửi kính tặng Bác tập thơ viết bằng tay của anh. Ước mơ đó của anh hôm nay đã đạt. Bác cầm tập thơ, hỏi chúng tôi về anh Trọng Tuyến. Khi nghe chúng tôi thưa anh đã hy sinh, Bác lặng đi một lúc.

Hôm gặp chúng tôi, vì là đoàn đại biểu Mặt trận lần đầu tiên ra thăm miền Bắc, nên Bác hỏi nhiều về phong trào đấu tranh, về tinh thần sinh hoạt, chiến đấu của đồng bào, chiến sĩ. Chính trong buổi gặp này Bác đã nói câu nói nổi tiếng làm xúc động hàng chục triệu trái tim chúng ta. Khi chúng tôi dâng lên Bác các tặng phẩm, Bác nhận xong, Bác đưa tay lên trái tim mình:

- Bác chẳng có gì tặng lại cả, chỉ có cái này thôi. Nghỉ một chút Bác nói với một giọng rất xúc động: Miền Nam Việt Nam ở trong trái tim tôi.

Suốt ngày hôm đó và cả mãi mãi sau này mỗi khi nhớ lại câu nói đó tôi cứ bồi hồi mãi. Miền Nam ở trong trái tim Bác, trái tim Bác lớn quá, mênh mông quá, chứa cả bao nỗi khổ đau nhưng cũng bao nhiêu quật cường, anh hùng, chí khí. Miền Nam, nơi cả loài người đang hướng về, nằm trong trái tim của vị anh hùng dân tộc, của Bác kính yêu.

Mấy hôm sau, đến thăm kỳ họp của Quốc hội, chúng tôi lại được gặp Bác một lần nữa. Lần này nghe đâu trước khi chúng tôi vào, Bác điều khiển các vị đại biểu quốc hội lên ngâm thơ vui lắm. Sau khi chủ tịch Trường Chinh đọc diễn văn chào mừng, giáo sư Nguyễn Văn Hiếu đọc đáp từ, các đại biểu quốc hội ra nghỉ ở Phòng Gương. Trong lúc các đại biểu đang vây quanh chúng tôi hỏi chuyện miền Nam thì Bác đến. Bác kéo tôi đến gần bên rồi nói:

- Các chú có biết chú này không? Chú này là miền Nam trọ trẹ đây. (Ý Bác nói người Trị Thiên)

Nói xong Bác cười và bảo tôi ngâm cho Bác nghe một bài thơ. Thật bất ngờ. Tôi đang bồi hồi, xúc động nên không biết đọc bài gì. Bỗng tôi nhớ ra: “Cháu nhớ Bác Hồ”, một bài thơ tôi làm bên bến Ô Lâu. Nhưng ngâm đến câu:

"Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn", tôi quên mất. Bác thấy tôi quên liền ôm tôi hôn.

- Đấy! Hôm nay Bác hôn thật đấy!

Trời ơi, tôi sướng quá và may làm sao một nhà nhiếp ảnh đã kịp ghi lại phút thiêng liêng đó. Đến hôm nay mỗi lần mở tấm ảnh ấy ra tôi vẫn thấy còn như ấm hơi Bác...

Những lần gặp Bác hồi đó, Bác ít đủ có thì giờ để hỏi riêng tôi hay dạy bảo tôi về việc viết lách. Có khi Bác hỏi: Chú viết được những gì? Ở miền Nam chú viết như thế nào? v.v... Nhưng có một lần, Bác nói một câu mà tôi nhớ mãi, lấy làm bài học cho mình. Khi đó Bác tặng anh Hiếu một cuốn Europe (châu Âu) số đặc biệt đăng toàn tác phẩm Việt Nam, trong đó thơ Bác được dịch và đăng ở đầu. Nhân đó tôi cũng muốn khoe với Bác một chút. Tôi thưa:

- Thưa Bác trong này họ cũng có dịch thơ cháu. Tôi tưởng Bác sẽ khen, không ngờ Bác hỏi:

- Ừ chú thì cứ đọc thơ chú, có đọc thơ ai!

Tôi biết Bác có ý phê bình, không nên đề cao mình, không nên chỉ biết có mình mà không đọc tác phẩm, không học hỏi anh em khác.

Được lớn lên trong cuộc chiến đấu ở miền Nam, được rèn luyện trong cuộc chiến đấu đó, do những cảm xúc mãnh liệt đầu tiên mà tôi làm thơ, tôi không ngờ được vinh dự lớn lao là gặp Bác. Tôi vẫn nhớ lần Bác hỏi tôi về chuyện vợ con như một người cha hỏi đứa con trai lớn đi xa về, Bác bảo tôi học Bác gì thì học chứ đừng học chuyện đó. Bác khuyên tôi nên lấy vợ như thế nào. Bác ơi, sao Bác lo cho chúng cháu ân cần, tỉ mỉ thế. Còn Bác? Sao Bác chẳng lo gì cho Bác cả và cũng chẳng cho ai lo gì cho riêng Bác cả.

Bác mất rồi! Những anh chị em làm công tác văn nghệ ở miền Nam, cũng như đồng bào miền Nam ước ao được gặp Bác, nay không thỏa được ước mơ rồi. Tôi nhớ đến những dòng nước mắt của Liên Nam, Thu Bồn, Xuân Hồng, Phan Tứ v.v... hôm truy điệu Bác. Chúng tôi nói với nhau: Phải viết gì? Phải viết gì về Bác bây giờ? Phải viết gì để thực hiện lời di chúc của Bác.

Thưa Bác, cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam anh hùng lắm. Chúng cháu được cách mạng phân công cầm bút, được lớn lên trong thế hệ Hồ Chí Minh vĩ đại, chúng cháu nguyện làm theo lời dạy của Bác:

Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong


đóng góp phần mình vào sự nghiệp giải phóng miền Nam.

T.H
(TCSH42/04&05-1990)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).