Những góc nhìn về 'Tùng gai'

09:31 26/06/2015

HOÀNG THỤY ANH

Mùa hè treo rũ
Trong cái hộp hai mươi mét vuông
Ngổn ngang màu
Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông
Ngày lên dây hết cỡ
                            Chật
Dâng đầy lên ngực
Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian

 

Không gian, thời gian, vạn vật đều trong trạng thái ngột ngạt, chật chội, bức bách như sợi dây đàn căng hết cỡ. Trạng thái ấy tạo sinh những đối cực: sinh - tử, mặt đất - bầu trời; ánh sáng - bóng tối; khổ đau - hân hoan,... và làm nên vùng thẩm mĩ riêng cho Tùng gai(*) của Bạch Diệp. Chị chấp nhận hai mặt của cuộc đời, phóng chiếu chúng thành cảm hứng sáng tạo, bày tỏ nỗi niềm và lí tưởng nghệ thuật bằng những cảm xúc dạt dào, nữ tính.

1.

Tùng gai là tiếng nói trải lòng về tình yêu, hạnh phúc, cuộc sống. Những câu thơ đi ra từ trái tim sẵn sàng chấp nhận sự đày ải vừa run rẩy vừa dữ dội. Tình yêu mãnh liệt ấy nhập vào câu chữ nó bồi đắp nên nhiều câu thơ hay, ray rứt, thổn thức, với ngôn ngữ tượng hình đẹp và buồn: Những vệt buồn chảy trên tấm toan mùa đông; Ngày vội vã che ngực áo tiếng thở dài/ Đêm giấu giọng cười nơi mắt bão; Bầu ngực chảy theo tiếng thở dài mùa nước; Biển duỗi phơi trăng; Thời gian cày sới nát nhừ những giấc mơ;... Tiếng thơ trong Tùng gai đầy tâm trạng là chuỗi dài khao khát kiếm tìm chân lý cuộc sống, khao khát nhận thức lại giá trị cuộc sống, hướng đến chân thiện mỹ. Tiết nhịp thơ trong Tùng gai như đổ dồn lên câu chữ, thắt chặt, bó buộc, níu kéo người đọc vào vòng vây đối thoại. Tác giả không làm dáng hay cách tân thơ mình mà thơ cứ tự nhiên thấm vào lòng người bằng những lời tự vấn, những câu hỏi day dứt về bản thể của tình yêu. Cuộc sống “con người đặc như sương mù”, làm sao có thể tìm được “màu bình yên”? Chị đặt ra nhiều câu hỏi trước những hiện tượng tưởng như quen thuộc nhưng lại tạo được sự bất ngờ, ẩn ý: Sao người ta cần thêm một ngày nói dối/ Khi triệu triệu năm khổ đau vì nói dối (Tùng gai). Nói dối là một hiện tượng được con người sử dụng rộng rãi trong đời sống nhằm thỏa mãn, đáp ứng những nhu cầu của mình. Nếu con người cẩn trọng, cân nhắc trong từng lời ăn tiếng nói thì thế giới của chúng ta sẽ ngập tràn lòng yêu thương, hòa ái biết bao. Chị không đưa ra câu trả lời mà tiếp tục xoáy vào lòng người bằng giả định: Nếu những lời nói dối được đánh dấu bằng những nét vạch/ Thì trên mặt vô số kẻ ngổn ngang vết sẹo/ Và thượng đế không phải bận rộn/ Sắp đặt đẩy đưa (Vết sẹo). Rồi chị tiếp tục lật lại vấn đề: “Làm sao cho đá có tâm hồn?/ Khi ngoài phố cỗi cằn như sa mạc”. Cách chị tự vấn, không giải quyết triệt để vấn đề là hướng để ngỏ khéo léo, người đọc tự đi tìm câu trả lời, giải mã cho cái thế giới “Vắng quá sự sẻ chia trên mặt đất”.

Trong tình yêu, chị sẵn lòng hy sinh “sự kiêu hãnh” của người con gái, “nép mình” bên cạnh người thương dù biết trước tình yêu ấy mong manh, dễ vỡ. Trái tim yêu tha thiết, nồng nàn, vị tha, vẫn không thể che giấu nổi nỗi âu lo, khắc khoải về sự chia xa:

Cái ranh giới này thật mong manh
Em cố ghì níu bằng những giọt máu ứ đầu ngón tay
Hố nước mắt cạn khô
Tiếng kêu nghẹn run nhịp thở
Bờ kia xa lạ
Anh bước thêm bước nữa
Là ta mất nhau

                        (Đa mang)

Động từ “ghì níu” đặt chị vào vị thế bị động. Nhưng đến hai câu cuối của khổ thơ, tâm thế chị lại ở vị trí chủ động. Ý thức nữ tính đã giúp chị giải tỏa ẩn ức, vượt ra khỏi những trói buộc của đạo đức và xã hội, khẳng định, nhấn mạnh tiếng nói trong tình yêu của mình. Khi ngang trái, chị tự vượt qua nỗi buồn bằng lời trách nhẹ nhàng, điềm đạm, đằm thắm: Để biết yêu nhiều đến thế/ Một ngày sao lại xa nhau (Trên chiếc ghế của anh). Kiểu ngầm tự đối thoại vậy thôi thế mà xót xa, chạnh lòng! Không anh. Nỗi buồn của chị cứ thấm vào ngày, xoáy vào kí ức, nhìn đâu cũng thấy lòng đớn đau: “Em nhìn ngày bằng con mắt khác/ Không anh. Kí ức rỗng trắng màu/ Ngọn gió thôi cũng đượm màu da diết/ Chạm vào ngày đã thấy mình đau” (Trên chiếc ghế của anh). Vì vậy, đọc Tùng gai, chúng ta không khó để lẩy ra một loạt từ ngữ mang sắc thái trầm, đầy tâm trạng như: oằn, đau, rũ, réo rắt, buốt, cay đắng, mong manh, rỗng, ngột ngạt, sợ hãi,...

Như thế, chị tìm kiếm, luận giải ý nghĩa, giá trị của cuộc đời không phải bằng cách phản ánh nó mà bằng cách đưa ra một hệ thống nghi vấn. Chị như đang tự đối thoại với chính mình, với mọi người. Và tự trong câu hỏi đã hàm chứa cách đánh giá, câu trả lời về giá trị tình yêu, cuộc đời của một người đàn bà dịu dàng, vị tha nhưng tiềm ẩn một sức sống mạnh mẽ, cam chịu.

2.

Xu hướng khai thác những vùng mờ của tiềm thức, vô thức là cách để thể nghiệm hiện thực sâu sắc hơn, khám phá miền bí ẩn trong tâm hồn con người. Giấc mơ, cõi mơ ở Tùng gai xuất hiện khá nhiều, 20 lần/40 bài. Bạch Diệp không có ý xây dựng một thế giới vô thức ma mị, huyền bí mà hướng về một thế giới đầy kỉ niệm của tuổi thơ. Ẩn giấu trong miền sâu của vô thức, là một cái tôi đầy khao khát sống lại tuổi thơ của chính mình. Kí ức tuổi thơ hiện hữu ken dày “chật” những giấc mơ của chị: “Chật những giấc mơ tuổi thơ. Khao khát ấu thơ được tái hiện bằng những hình ảnh ám dụ khéo léo. Bếp lò làm sao đun nhừ được sự vật vô hình? Hay đó là ngọn lửa lòng đang cháy rực về cội nguồn của biết bao yêu thương: “Bếp lò sôi/ Đun nhừ giấc mơ tôi/ Khát màu xanh phía chân trời nơi có anh và mẹ/ Miên man màu nắng xa xôi” (Một mình ở Gotha). Giấc mơ thuở còn rám nắng đôi má trẻ thơ về một vầng trăng cổ tích, về ngày mùa rộn ràng, về khói bếp quyện màu xám nâu của đồng ruộng, về bữa cơm chiều lam lũ,... nhen nhúm ước ao bình yên, ngọt ngào, giúp nhà thơ gột rửa “nỗi đau thị thành” đối diện với những va đập cuộc đời:

Trên chiếc nôi sóng xanh
Con mơ giấc bình yên qua lời ru của mẹ
Ước một dòng sông không màng khổ đau, không xích neo thừng cỏ
Đò mọc cánh hát lời ca mênh mông”

                        (Giấc mơ những con đò)

Giấc mơ về tuổi thơ là cái neo để Bạch Diệp giải thoát tâm hồn mình, tìm được sự an nhiên trong cuộc mưu sinh vất vả, tất bật. Đọc Tùng gai, chúng ta luôn bắt gặp nỗi quay quắt của kẻ li hương ước mơ được trở về nơi chôn nhau cắt rốn để được là chính mình, được cảm nhận vòng tay ấm áp của người thân: “Đất quê không lời/ Nắng mưa bịn rịn/ Vòng quẩn vòng quanh/ Xa mấy cũng đếm ngày về” (Mùa gieo hạt). Giữa chốn ồn ào, chị thấy mình lạc lõng, lẻ loi, như bị sợi dây thừng thít chắt: “Tôi mơ cánh đồng tuổi thơ tôi/ Trong căn phòng như cái tổ chim giữa phố/ Đôi khi trần nhà cứ thấp dần/ Ép xuống từng nhịp thở/ Tôi ngơ ngác/ Mình là ai đây” (Giấc mơ trở về). Câu hỏi “Mình là ai đây gợi nhớ đến câu hỏi “Ta là ai...” (trong bài thơ Hai câu hỏi) của Chế Lan Viên. Nếu câu hỏi của Chế Lan Viên nhằm khẳng định bản ngã, cá tính sáng tạo độc đáo thì trong câu thơ của Bạch Diệp, việc cảm giác như bị cắt đứt mọi kết nối với thế giới bên ngoài không phải vì bế tắc, mà đó là biểu hiện của nỗi hoài nghi về sự hiện hữu và đơn độc của chị trong cuộc sống.

Cõi mơ dẫu chỉ là ảo ảnh, nhưng nó là phương tiện để Bạch Diệp mở rộng biên độ sáng tạo. Đồng thời, cõi mơ còn biểu hiện sức sống, vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn của nhà thơ Bạch Diệp.

3.

Góp phần làm nên ám ảnh, cái riêng về cảm xúc, là cách Bạch Diệp sử dụng “sự mới lạ” trong cấu trúc so sánh. Chị vận dụng linh hoạt các cấu trúc so sánh. Có lúc đầy đủ các thành tố, lúc khuyết thiếu, mở rộng hoặc đảo một trong các thành tố. Chị chú trọng nâng cao yếu tố chuẩn so sánh. Trong một khổ thơ, so sánh được sử dụng liên tiếp:

Có gì đó
Như hơi thở ẩm ướt
Êm ái giữa mùa lá mục
Như ngạt dông
Chầm chậm chiếm hữu

                        (Thang máy)

Với thi nhân, việc quan trọng là phải khoác cái mới cái lạ vào nghệ thuật so sánh. Nếu yếu tố so sánh nghèo nàn câu thơ mất hết cảm xúc và vẻ đẹp của nó, cũng như không có khả năng khơi gợi sự đồng sáng tạo nơi người đọc. Tùng gai có nhiều câu so sánh khá thú vị. Câu thơ “Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông” ám gợi về cái ao cũ chật hẹp, giam hãm, cầm tù mọi sự sáng tạo. Chị không chấp nhận người nghệ sĩ cứ dẫm chân một chỗ, đứng ngoài cuộc mà phải bứt phá trong sáng tạo, nếu không, thơ ca chỉ là những lời sáo rỗng vô vị: “Cứ viết đi viết lại như lời lải nhải của kẻ mất trí. Lấy con người làm sự vật so sánh, Bạch Diệp chọn mi mắt làm đối tượng so sánh: “Vệt sáng đường chân trời như vòng mi khép”. Những vệt sáng rực rỡ cuối cùng của một ngày tàn như vòng mi khép lại gợi vẻ đẹp mong manh, kì diệu. Hoặc cách sử dụng yếu tố chuẩn so sánh trong câu thơ: “Anh đi trời đổ mưa dài/ Thành phố như tấm thảm len sũng nước” cũng tạo được hiệu ứng biểu cảm. Đan cài hoán dụ và so sánh, người đọc như đồng cảm nỗi buồn, cô đơn của tác giả. Như vậy, việc Bạch Diệp dụng công các yếu tố chuẩn so sánh ít nhiều đã làm mới thi ảnh và nâng được cảm xúc Tùng gai cao hơn.

4.

Ngoài ra, khám phá màu sắc trong tập Tùng gai cũng góp phần thể hiện am hiểu về “hội họa”, đấy là những đối cực trong tâm hồn Bạch Diệp. Mỗi màu sắc trong thơ Bạch Diệp đều có ngôn ngữ riêng, cảm xúc riêng. Tùng gai là một bức tranh “ngổn ngang màu”: xanh, đỏ, nâu, xám, trắng, đen, vàng, tím, lam,... nhưng không gây nhàm chán. Màu sắc của tâm hồn chị trước nỗi đau thân phận. Đêm của Bạch Diệp là “đêm men màu rượu chát”, tồn tại hai mặt đối lập, vừa đắm say men/màu tình yêu vừa chất chứa khổ đau, đắng cay. Gió, đối tượng vô hình, trong mắt chị, đấy là ngọn gió của tình yêu, của nỗi nhớ: “Ngọn gió thôi cũng đượm màu da diết”. Tác giả còn lồng kết màu của đất, của quê hương với màu bàn tay con người: “Màu ruộng chiều nâu rám bàn tay”. Chỉ một màu nâu thôi, vừa nói được biết bao nỗi vất vả, tảo tần, khơi dậy trong lòng người đọc những tình cảm sâu đậm. Cũng màu nâu ấy, ở một câu thơ khác, người đọc không nguôi ám ảnh bởi sự kết hợp những gam màu trầm trong đôi “mắt nâu màu rêu cát” của những đứa trẻ sinh ra và lớn lên gắn với mạn thuyền. Dường như bao nhiêu khát vọng, ước mong lẫn nỗi cơ cực đều ẩn sâu trong đôi mắt ấy:

Những đứa trẻ lớn cùng sông
Lưng trần mắt nâu màu rêu cát
Chữ cái rơi đầu ngón tay lấm mùi bùn nước
Ngỡ ngàng mơ cổng trường xa

                        (Giấc mơ những con đò)

Màu xanh được lặp đi lặp lại đến 24 lần, chiếm số lượng nhiều nhất so với các sắc màu khác trong tập thơ. Màu xanh gợi sự yên bình, thanh thản. Nếu màu nâu, gam màu trầm, Bạch Diệp thường dùng để nói đến thân phận con người thì màu xanh dùng để gợi vẻ đẹp trong lành, sức sống bất diệt của thiên nhiên và vạn vật: Tiếng chim thả đồng xanh giọng hót; Tháng năm trời vãi nắng xanh; Huế đã vô mùa mưa xanh rét ngọt, Vũ khúc Tam giang xanh ngời ngợi,... Màu xanh như là biểu trưng cho niềm hi vọng của chị về một cuộc sống tươi đẹp ngay trong cõi phố “Con người đặc như sương mù”. Màu xanh của chị gắn liền với sự khởi đầu đẹp như câu chuyện cổ tích của tuổi thơ: Trăng cổ tích xanh đường quê lầy lộ”, gắn liền với cái non tơ của tình yêu đầu đời, thanh khiết, thủy chung trong “Người chơi guitare bass”: Nụ hôn xanh, Tháng ngày xa anh/ Xanh một miền kỷ niệm.

Nếu nâu và xanh là sự trộn lẫn giữa thực và cảm xúc, thì màu trắng trong thơ Bạch Diệp đan xen giữa thực và hư ảo. Màu trắng là gam chủ đạo choán hết vùng kí ức của chị. Cụm từ “kí ức” luôn đi kèm với sắc trắng khiến vùng kí ức của chị cứ hư thực khói huyền: Trắng lạnh vùng kí ức rỗng; Không anh. Kí ức rỗng trắng màu; Trắng bãi bờ kí ức; Dòng kí ức trắng không tì vết; Tẩy trắng vùng trời kí ức,... Màu trắng hư ảo vừa vẫy gọi Bạch Diệp miên man trong tiềm thức vừa ngăn cản khát vọng sống, khát vọng yêu của tác giả.

Soi chiếu cuộc sống bằng tư duy hướng nội, Tùng gai toát lên vẻ đẹp đầy nữ tính, với những giãi bày sâu lắng, triết lí. Tuy nhiên, sự giải bày chỉ mới thăng hoa cảm xúc của Bạch Diệp chứ chưa đủ để Tùng gai hướng đến sự hoàn thiện, cách tân về mặt hình thức. Vượt qua được thử thách này, chúng tôi tin rằng, thơ của chị sẽ sắc sảo hơn, độc đáo hơn. Nhưng có một điều không thể phủ nhận, những lát cắt tâm hồn ấy đã làm nên giọng điệu, cách nhìn nhận, đánh giá khác biệt của Bạch Diệp. Tùng gai xứng đáng là tập thơ của sự suy tư, sâu lắng, ẩn chứa cảm xúc thiết tha, dào dạt.

H.T.A
(SH316/06-15)

-------------------
(*) Tùng gai, Nxb. Văn học, 2014.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

  • VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

  • NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

  • YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".

  • VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)

  • VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

  • TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

  • LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001

  • HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.

  • HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...

  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.