HOÀNG THỤY ANH
Mùa hè treo rũ
Trong cái hộp hai mươi mét vuông
Ngổn ngang màu
Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông
Ngày lên dây hết cỡ
Chật
Dâng đầy lên ngực
Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian
Không gian, thời gian, vạn vật đều trong trạng thái ngột ngạt, chật chội, bức bách như sợi dây đàn căng hết cỡ. Trạng thái ấy tạo sinh những đối cực: sinh - tử, mặt đất - bầu trời; ánh sáng - bóng tối; khổ đau - hân hoan,... và làm nên vùng thẩm mĩ riêng cho Tùng gai(*) của Bạch Diệp. Chị chấp nhận hai mặt của cuộc đời, phóng chiếu chúng thành cảm hứng sáng tạo, bày tỏ nỗi niềm và lí tưởng nghệ thuật bằng những cảm xúc dạt dào, nữ tính.
1.
Tùng gai là tiếng nói trải lòng về tình yêu, hạnh phúc, cuộc sống. Những câu thơ đi ra từ trái tim sẵn sàng chấp nhận sự đày ải vừa run rẩy vừa dữ dội. Tình yêu mãnh liệt ấy nhập vào câu chữ nó bồi đắp nên nhiều câu thơ hay, ray rứt, thổn thức, với ngôn ngữ tượng hình đẹp và buồn: Những vệt buồn chảy trên tấm toan mùa đông; Ngày vội vã che ngực áo tiếng thở dài/ Đêm giấu giọng cười nơi mắt bão; Bầu ngực chảy theo tiếng thở dài mùa nước; Biển duỗi phơi trăng; Thời gian cày sới nát nhừ những giấc mơ;... Tiếng thơ trong Tùng gai đầy tâm trạng là chuỗi dài khao khát kiếm tìm chân lý cuộc sống, khao khát nhận thức lại giá trị cuộc sống, hướng đến chân thiện mỹ. Tiết nhịp thơ trong Tùng gai như đổ dồn lên câu chữ, thắt chặt, bó buộc, níu kéo người đọc vào vòng vây đối thoại. Tác giả không làm dáng hay cách tân thơ mình mà thơ cứ tự nhiên thấm vào lòng người bằng những lời tự vấn, những câu hỏi day dứt về bản thể của tình yêu. Cuộc sống “con người đặc như sương mù”, làm sao có thể tìm được “màu bình yên”? Chị đặt ra nhiều câu hỏi trước những hiện tượng tưởng như quen thuộc nhưng lại tạo được sự bất ngờ, ẩn ý: Sao người ta cần thêm một ngày nói dối/ Khi triệu triệu năm khổ đau vì nói dối (Tùng gai). Nói dối là một hiện tượng được con người sử dụng rộng rãi trong đời sống nhằm thỏa mãn, đáp ứng những nhu cầu của mình. Nếu con người cẩn trọng, cân nhắc trong từng lời ăn tiếng nói thì thế giới của chúng ta sẽ ngập tràn lòng yêu thương, hòa ái biết bao. Chị không đưa ra câu trả lời mà tiếp tục xoáy vào lòng người bằng giả định: Nếu những lời nói dối được đánh dấu bằng những nét vạch/ Thì trên mặt vô số kẻ ngổn ngang vết sẹo/ Và thượng đế không phải bận rộn/ Sắp đặt đẩy đưa (Vết sẹo). Rồi chị tiếp tục lật lại vấn đề: “Làm sao cho đá có tâm hồn?/ Khi ngoài phố cỗi cằn như sa mạc”. Cách chị tự vấn, không giải quyết triệt để vấn đề là hướng để ngỏ khéo léo, người đọc tự đi tìm câu trả lời, giải mã cho cái thế giới “Vắng quá sự sẻ chia trên mặt đất”.
Trong tình yêu, chị sẵn lòng hy sinh “sự kiêu hãnh” của người con gái, “nép mình” bên cạnh người thương dù biết trước tình yêu ấy mong manh, dễ vỡ. Trái tim yêu tha thiết, nồng nàn, vị tha, vẫn không thể che giấu nổi nỗi âu lo, khắc khoải về sự chia xa:
Cái ranh giới này thật mong manh
Em cố ghì níu bằng những giọt máu ứ đầu ngón tay
Hố nước mắt cạn khô
Tiếng kêu nghẹn run nhịp thở
Bờ kia xa lạ
Anh bước thêm bước nữa
Là ta mất nhau
(Đa mang)
Động từ “ghì níu” đặt chị vào vị thế bị động. Nhưng đến hai câu cuối của khổ thơ, tâm thế chị lại ở vị trí chủ động. Ý thức nữ tính đã giúp chị giải tỏa ẩn ức, vượt ra khỏi những trói buộc của đạo đức và xã hội, khẳng định, nhấn mạnh tiếng nói trong tình yêu của mình. Khi ngang trái, chị tự vượt qua nỗi buồn bằng lời trách nhẹ nhàng, điềm đạm, đằm thắm: Để biết yêu nhiều đến thế/ Một ngày sao lại xa nhau (Trên chiếc ghế của anh). Kiểu ngầm tự đối thoại vậy thôi thế mà xót xa, chạnh lòng! Không anh. Nỗi buồn của chị cứ thấm vào ngày, xoáy vào kí ức, nhìn đâu cũng thấy lòng đớn đau: “Em nhìn ngày bằng con mắt khác/ Không anh. Kí ức rỗng trắng màu/ Ngọn gió thôi cũng đượm màu da diết/ Chạm vào ngày đã thấy mình đau” (Trên chiếc ghế của anh). Vì vậy, đọc Tùng gai, chúng ta không khó để lẩy ra một loạt từ ngữ mang sắc thái trầm, đầy tâm trạng như: oằn, đau, rũ, réo rắt, buốt, cay đắng, mong manh, rỗng, ngột ngạt, sợ hãi,...
Như thế, chị tìm kiếm, luận giải ý nghĩa, giá trị của cuộc đời không phải bằng cách phản ánh nó mà bằng cách đưa ra một hệ thống nghi vấn. Chị như đang tự đối thoại với chính mình, với mọi người. Và tự trong câu hỏi đã hàm chứa cách đánh giá, câu trả lời về giá trị tình yêu, cuộc đời của một người đàn bà dịu dàng, vị tha nhưng tiềm ẩn một sức sống mạnh mẽ, cam chịu.
2.
Xu hướng khai thác những vùng mờ của tiềm thức, vô thức là cách để thể nghiệm hiện thực sâu sắc hơn, khám phá miền bí ẩn trong tâm hồn con người. Giấc mơ, cõi mơ ở Tùng gai xuất hiện khá nhiều, 20 lần/40 bài. Bạch Diệp không có ý xây dựng một thế giới vô thức ma mị, huyền bí mà hướng về một thế giới đầy kỉ niệm của tuổi thơ. Ẩn giấu trong miền sâu của vô thức, là một cái tôi đầy khao khát sống lại tuổi thơ của chính mình. Kí ức tuổi thơ hiện hữu ken dày “chật” những giấc mơ của chị: “Chật những giấc mơ tuổi thơ”. Khao khát ấu thơ được tái hiện bằng những hình ảnh ám dụ khéo léo. Bếp lò làm sao đun nhừ được sự vật vô hình? Hay đó là ngọn lửa lòng đang cháy rực về cội nguồn của biết bao yêu thương: “Bếp lò sôi/ Đun nhừ giấc mơ tôi/ Khát màu xanh phía chân trời nơi có anh và mẹ/ Miên man màu nắng xa xôi” (Một mình ở Gotha). Giấc mơ thuở còn rám nắng đôi má trẻ thơ về một vầng trăng cổ tích, về ngày mùa rộn ràng, về khói bếp quyện màu xám nâu của đồng ruộng, về bữa cơm chiều lam lũ,... nhen nhúm ước ao bình yên, ngọt ngào, giúp nhà thơ gột rửa “nỗi đau thị thành” đối diện với những va đập cuộc đời:
Trên chiếc nôi sóng xanh
Con mơ giấc bình yên qua lời ru của mẹ
Ước một dòng sông không màng khổ đau, không xích neo thừng cỏ
Đò mọc cánh hát lời ca mênh mông”
(Giấc mơ những con đò)
Giấc mơ về tuổi thơ là cái neo để Bạch Diệp giải thoát tâm hồn mình, tìm được sự an nhiên trong cuộc mưu sinh vất vả, tất bật. Đọc Tùng gai, chúng ta luôn bắt gặp nỗi quay quắt của kẻ li hương ước mơ được trở về nơi chôn nhau cắt rốn để được là chính mình, được cảm nhận vòng tay ấm áp của người thân: “Đất quê không lời/ Nắng mưa bịn rịn/ Vòng quẩn vòng quanh/ Xa mấy cũng đếm ngày về” (Mùa gieo hạt). Giữa chốn ồn ào, chị thấy mình lạc lõng, lẻ loi, như bị sợi dây thừng thít chắt: “Tôi mơ cánh đồng tuổi thơ tôi/ Trong căn phòng như cái tổ chim giữa phố/ Đôi khi trần nhà cứ thấp dần/ Ép xuống từng nhịp thở/ Tôi ngơ ngác/ Mình là ai đây” (Giấc mơ trở về). Câu hỏi “Mình là ai đây gợi nhớ đến câu hỏi “Ta là ai...” (trong bài thơ Hai câu hỏi) của Chế Lan Viên. Nếu câu hỏi của Chế Lan Viên nhằm khẳng định bản ngã, cá tính sáng tạo độc đáo thì trong câu thơ của Bạch Diệp, việc cảm giác như bị cắt đứt mọi kết nối với thế giới bên ngoài không phải vì bế tắc, mà đó là biểu hiện của nỗi hoài nghi về sự hiện hữu và đơn độc của chị trong cuộc sống.
Cõi mơ dẫu chỉ là ảo ảnh, nhưng nó là phương tiện để Bạch Diệp mở rộng biên độ sáng tạo. Đồng thời, cõi mơ còn biểu hiện sức sống, vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn của nhà thơ Bạch Diệp.
3.
Góp phần làm nên ám ảnh, cái riêng về cảm xúc, là cách Bạch Diệp sử dụng “sự mới lạ” trong cấu trúc so sánh. Chị vận dụng linh hoạt các cấu trúc so sánh. Có lúc đầy đủ các thành tố, lúc khuyết thiếu, mở rộng hoặc đảo một trong các thành tố. Chị chú trọng nâng cao yếu tố chuẩn so sánh. Trong một khổ thơ, so sánh được sử dụng liên tiếp:
Có gì đó
Như hơi thở ẩm ướt
Êm ái giữa mùa lá mục
Như ngạt dông
Chầm chậm chiếm hữu
(Thang máy)
Với thi nhân, việc quan trọng là phải khoác cái mới cái lạ vào nghệ thuật so sánh. Nếu yếu tố so sánh nghèo nàn câu thơ mất hết cảm xúc và vẻ đẹp của nó, cũng như không có khả năng khơi gợi sự đồng sáng tạo nơi người đọc. Tùng gai có nhiều câu so sánh khá thú vị. Câu thơ “Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông” ám gợi về cái ao cũ chật hẹp, giam hãm, cầm tù mọi sự sáng tạo. Chị không chấp nhận người nghệ sĩ cứ dẫm chân một chỗ, đứng ngoài cuộc mà phải bứt phá trong sáng tạo, nếu không, thơ ca chỉ là những lời sáo rỗng vô vị: “Cứ viết đi viết lại như lời lải nhải của kẻ mất trí”. Lấy con người làm sự vật so sánh, Bạch Diệp chọn mi mắt làm đối tượng so sánh: “Vệt sáng đường chân trời như vòng mi khép”. Những vệt sáng rực rỡ cuối cùng của một ngày tàn như vòng mi khép lại gợi vẻ đẹp mong manh, kì diệu. Hoặc cách sử dụng yếu tố chuẩn so sánh trong câu thơ: “Anh đi trời đổ mưa dài/ Thành phố như tấm thảm len sũng nước” cũng tạo được hiệu ứng biểu cảm. Đan cài hoán dụ và so sánh, người đọc như đồng cảm nỗi buồn, cô đơn của tác giả. Như vậy, việc Bạch Diệp dụng công các yếu tố chuẩn so sánh ít nhiều đã làm mới thi ảnh và nâng được cảm xúc Tùng gai cao hơn.
4.
Ngoài ra, khám phá màu sắc trong tập Tùng gai cũng góp phần thể hiện am hiểu về “hội họa”, đấy là những đối cực trong tâm hồn Bạch Diệp. Mỗi màu sắc trong thơ Bạch Diệp đều có ngôn ngữ riêng, cảm xúc riêng. Tùng gai là một bức tranh “ngổn ngang màu”: xanh, đỏ, nâu, xám, trắng, đen, vàng, tím, lam,... nhưng không gây nhàm chán. Màu sắc của tâm hồn chị trước nỗi đau thân phận. Đêm của Bạch Diệp là “đêm men màu rượu chát”, tồn tại hai mặt đối lập, vừa đắm say men/màu tình yêu vừa chất chứa khổ đau, đắng cay. Gió, đối tượng vô hình, trong mắt chị, đấy là ngọn gió của tình yêu, của nỗi nhớ: “Ngọn gió thôi cũng đượm màu da diết”. Tác giả còn lồng kết màu của đất, của quê hương với màu bàn tay con người: “Màu ruộng chiều nâu rám bàn tay”. Chỉ một màu nâu thôi, vừa nói được biết bao nỗi vất vả, tảo tần, khơi dậy trong lòng người đọc những tình cảm sâu đậm. Cũng màu nâu ấy, ở một câu thơ khác, người đọc không nguôi ám ảnh bởi sự kết hợp những gam màu trầm trong đôi “mắt nâu màu rêu cát” của những đứa trẻ sinh ra và lớn lên gắn với mạn thuyền. Dường như bao nhiêu khát vọng, ước mong lẫn nỗi cơ cực đều ẩn sâu trong đôi mắt ấy:
Những đứa trẻ lớn cùng sông
Lưng trần mắt nâu màu rêu cát
Chữ cái rơi đầu ngón tay lấm mùi bùn nước
Ngỡ ngàng mơ cổng trường xa
(Giấc mơ những con đò)
Màu xanh được lặp đi lặp lại đến 24 lần, chiếm số lượng nhiều nhất so với các sắc màu khác trong tập thơ. Màu xanh gợi sự yên bình, thanh thản. Nếu màu nâu, gam màu trầm, Bạch Diệp thường dùng để nói đến thân phận con người thì màu xanh dùng để gợi vẻ đẹp trong lành, sức sống bất diệt của thiên nhiên và vạn vật: Tiếng chim thả đồng xanh giọng hót; Tháng năm trời vãi nắng xanh; Huế đã vô mùa mưa xanh rét ngọt, Vũ khúc Tam giang xanh ngời ngợi,... Màu xanh như là biểu trưng cho niềm hi vọng của chị về một cuộc sống tươi đẹp ngay trong cõi phố “Con người đặc như sương mù”. Màu xanh của chị gắn liền với sự khởi đầu đẹp như câu chuyện cổ tích của tuổi thơ: Trăng cổ tích xanh đường quê lầy lộ”, gắn liền với cái non tơ của tình yêu đầu đời, thanh khiết, thủy chung trong “Người chơi guitare bass”: Nụ hôn xanh, Tháng ngày xa anh/ Xanh một miền kỷ niệm.
Nếu nâu và xanh là sự trộn lẫn giữa thực và cảm xúc, thì màu trắng trong thơ Bạch Diệp đan xen giữa thực và hư ảo. Màu trắng là gam chủ đạo choán hết vùng kí ức của chị. Cụm từ “kí ức” luôn đi kèm với sắc trắng khiến vùng kí ức của chị cứ hư thực khói huyền: Trắng lạnh vùng kí ức rỗng; Không anh. Kí ức rỗng trắng màu; Trắng bãi bờ kí ức; Dòng kí ức trắng không tì vết; Tẩy trắng vùng trời kí ức,... Màu trắng hư ảo vừa vẫy gọi Bạch Diệp miên man trong tiềm thức vừa ngăn cản khát vọng sống, khát vọng yêu của tác giả.
Soi chiếu cuộc sống bằng tư duy hướng nội, Tùng gai toát lên vẻ đẹp đầy nữ tính, với những giãi bày sâu lắng, triết lí. Tuy nhiên, sự giải bày chỉ mới thăng hoa cảm xúc của Bạch Diệp chứ chưa đủ để Tùng gai hướng đến sự hoàn thiện, cách tân về mặt hình thức. Vượt qua được thử thách này, chúng tôi tin rằng, thơ của chị sẽ sắc sảo hơn, độc đáo hơn. Nhưng có một điều không thể phủ nhận, những lát cắt tâm hồn ấy đã làm nên giọng điệu, cách nhìn nhận, đánh giá khác biệt của Bạch Diệp. Tùng gai xứng đáng là tập thơ của sự suy tư, sâu lắng, ẩn chứa cảm xúc thiết tha, dào dạt.
H.T.A
(SH316/06-15)
-------------------
(*) Tùng gai, Nxb. Văn học, 2014.
HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.
NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).
ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.
HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.
LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.
HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.
HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.
VĂN CẦM HẢI (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".
TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.
NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.
TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)