Những bông hoa chút chít

15:24 23/02/2009
YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

Với tất cả chỉ 40 năm cuộc đời, ông đã viết nhiều vở kịch, truyện ngắn, tiểu luận văn học và đặc biệt là tác giả của 40 tiểu thuyết, 15 trong số đó đã được dựng thành phim lúc sinh thời. Ba lần lọt vào danh sách các nhà văn ứng cử viên giải Nobel Văn học.
Các tiểu thuyết nổi tiếng đặc trưng cho văn phong tinh tế độc đáo của ông có
Tiếng sóng vỗ (1954), Đền vàng (1956 - đã được dịch ra tiếng Việt), Nhà Kyoko (1959).
Tự tử sau âm mưu nổi dậy không thành chống lại "Hiến pháp Hòa bình" tại căn cứ quân sự Itygai ở thủ đô Tokyo .

Những bông hoa chút chít

Cậu móc từ trong túi ra một trái bóng nhỏ – và bắt đầu tung lên Trời cao.
Bầu Trời sâu hút.
Bầu Trời nhận trái bóng nhỏ, nâng nó tới mình – và trả lại rất nhanh.
Cậu bé bắt trái bóng và lại tung lên – cứ thế, làm như thể cậu đã thống lĩnh được Bầu Trời này.
Còn sau đó cậu hít không khí vào mình, sâu-thật sâu. Chưa từng có bao giờ, cả ở nhà, cả ngoài phố, cậu có thể hít thở vậy: ở đó chuyện ăn lớn hơn hít thở. Khi ngậm một miệng đầy không khí, cậu cảm thấy vị lạ kì và hương thơm – thấy bầu trời sâu và những áng mây trắng... từ đâu cả  hương thơm và mùi vị này đã đến với cậu – cậu không biết; chỉ cảm giác rằng dù thế nào chăng nữa cậu biết mạch nguồn.

Niềm vui lại xâm chiếm cậu.
Từ sự thấu suốt chân lí  mạch nguồn của mùi vị và hương thơm. Và giờ này cậu đã hiểu rõ điều cốt lõi của đất.
Mặt đất đã bắt đầu vũ điệu của mình, giống như trái tim đập nhịp. Khu rừng và vạn vật trong khu rừng đã khởi tấu lên âm nhạc cho vũ điệu này. Và cậu đã thấu hiểu toàn thể – cả âm nhạc, cả vũ điệu. Rừng hát, biển những cánh đồng xanh phía bắc ngọn đồi đã hát, những con chim nhỏ  xíu đã hát. Vào chính thời khắc này hình như cậu thậm chí có thể cất lời trò chuyện cùng những chú chim.
Cậu bé đi rất xa vào khu rừng bên chân đồi – và lạc lối.  Trăng đã lên. Rồi bất ngờ – từ bóng tối khu rừng một người đàn ông bước ra với cậu.
- Ông đi đâu thế?
- Ta lên đường du lịch, nhưng bỏ quên một thứ gì đó ở nhà...
- Ở nhà ư? Ông nói về ngôi nhà bị ruồng bỏ trên ngọn đồi gọi là “nhà tù” đó sao?
- Phải, nhà của ta được gọi tên như thế – là “nhà tù”... - người đó đáp lời vậy, thoáng sửng sốt.
- Có lẽ ông là một tên tù, và ông đã bỏ quên thứ gì đó trong nhà tù của mình phải không? Còn khi nào tìm thấy, thì ông sẽ lại ra đi sao?..

Cậu bé bắt gặp cái nhìn của người đàn ông – và một lúc lâu không rời mắt. Đôi mắt cậu dạo trên hồ thu – hồ thu thực tinh sạch, đến nỗi có thể đếm hết những hạt cát nhỏ ở dưới đáy hồ. Vẻ tinh sạch đe dọa. Đe dọa bởi cái tận thiện tận mĩ của mình... Khi bạn nhìn viên ngọc thanh khiết nhất – lâu – rất lâu bạn sợ phải chạm tay vào nó: nó thực là đe dọa bởi những bí mật về sự thanh khiết của mình.
- Phải, mọi chuyện là thế, - người đàn ông thốt lên đáp lời.
Ông hãy còn đang lẩm bẩm điều này – mà cậu bé đã nhào đến ông, giấu khuôn mặt vào  đôi tay giang đón, rồi khóc òa...
Hòa vào giọng cậu đã khóc òa cả con chim họa mi trên cây cao.
- Ông không được ra khỏi đó!.. Chúng cháu bị cấm chơi ở đây, trên đồi... Ông hãy quay trở lại ngôi nhà màu xám của mình đi.

Thở dài, người đàn ông nhìn vầng trăng. Đôi mắt ông cũng trong trẻo hệt như đôi mắt Akakhiko.
- Ta có một đứa con; một cậu bé cũng nhỏ thế...
- Thế bây giờ cậu ấy ở đâu?
- Bây giờ nó là chim hải âu, và bay trên biển. Và khi đi săn, phát hiện thấy ánh bạc vảy cá giữa những con sóng, thì nó nhúng ngập cổ xuống làn nước. Và nói: “chúng đã giết chết ta trong biển chiều xám xịt, tên sát nhân của ta – ở dưới đáy đen ngòm. Và chừng nào hắn chưa nổi lên trên mặt nước, ta có nghĩa vụ chờ đợi ở đây, ngưng cánh bay trên biển này...”
- Ông nói gì vậy?!
Và người đàn ông nói tiếp:
- Con quỷ, sau khi giết chết chim hải âu tội nghiệp đó, đã tìm thấy con đường lên mặt nước. Và cậu có biết, ai đã chỉ con đường này cho nó không? Cậu... Rồi ta sẽ làm cho cậu hạnh phúc. Ta đang quay trở lại nhà tù đây.

Ở bìa rừng, người tù từ biệt đứa trẻ – rồi leo xuống dốc quay trở về ngôi nhà xám xịt của mình.
Một năm trôi qua.
Và khi hoa chút chít lại nở bung – từ cổng nhà tù hiện ra người được phóng thích. Các cậu bé, các bạn bè của ông, đã chờ đợi ông.
Người được phóng thích bước ra.
Nhiều ánh sáng rực rỡ khắp nơi. Những đứa trẻ chạy lại với ông và ngồi xuống vòng quanh trên cỏ.
Ánh sáng lấp lánh, rạng rỡ nơi nơi – những bông hoa chút chít nở rộ.
Bọn trẻ nhìn xuống phía dưới – và ở đó, bên chân đồi, đột nhiên chúng nhận thấy, từ từ kéo lên phía chúng thứ gì to lớn và đen. Đó là những người đàn bà. Mẹ của Akikhiko. Mẹ của Toshiko. Ba, bốn... Những bước chân họ lạnh lùng và vô cảm. Họ đang tiến lại gần – rồi tóm tay bọn trẻ con:

- Con đã chạm tay vào tên tội phạm phải không? Thật là hư quá!.. – Và họ lau những bàn tay con trẻ bằng khăn mu soa. Người đàn ông dõi xem tất thảy những chiếc khăn của họ thấp thoáng và bay lên. Trong cơn thịnh nộ, những người đàn bà bắt đầu gào thét với ông. Người đàn ông im lặng cúi xuống – rồi ngắt những bông hoa chút chít trao cho lũ trẻ: mỗi đứa một bông, và bỏ đi, không ngoái nhìn trở lại. Trên bàn tay phải của mỗi đứa trẻ giờ này có một bông hoa.
- Vứt ngay! Vứt ngay! – Mắt các bà mẹ hằn học.
Những bông hoa chút chít. Sau khi rơi xuống đất, tất cả chúng sáng lóng lánh và lóng lánh trong ánh nắng tàn.
A, những bông hoa chút chít: chúng như than đỏ hồng – trong ngọn cỏ đã ngả sang giá lạnh...
           KIỀU VÂN dịch

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Salman Rushdie (1947), nhà văn và người viết tiểu luận, gốc Ấn, hiện sống tại Mỹ, là tác giả của nhiều tiểu thuyết gây tiếng vang, như Những đứa con của nửa đêm, được trao giải Booker, năm 1981, và cả những tiểu thuyết gây tranh cãi như Những vần thơ của Satan, 1988. Văn phong Rushdie thâm trầm, khoáng lộng, hài hước và tươi mới.

  • FRANK O’CONNOR  

    Khi tôi tỉnh giấc, tôi nghe có tiếng mẹ ho ở nhà bếp. Mẹ bị ho đã nhiều ngày nhưng tôi không để ý. Chúng tôi sống ở Old Youghal Road, nơi mà vào lúc đó, có một con đường nhiều đồi dốc dẫn tới East Cork.


  • E. RUXACỐP (Nga)

  • ABDULRAZAK GURNAH    

    Tôi nghĩ anh ta đã nhìn thấy tôi đang tiến lại gần, nhưng vì lý do riêng nào đấy nên anh ta vẫn không có dấu hiệu gì.

  • Maurice Druon, sinh năm 1918, theo học Đại học Luật Paris. Trong chiến tranh thế giới ln thứ hai, ông tham gia lực lượng kháng chiến Pháp chng phát xít Đức, là thông tin viên Đài Phát thanh Kháng Chiến. Giải Goncourt 1948 với tác phm "Đại Gia đình" (Les Grandes Familles). Các tác phm đậm chất trữ tình của nhà văn: "Kết thúc đời người" (La Fin des Hommes), "Hẹn gặp tại Địa ngục" (Rendez-vous aux enfers) phản ánh một thiên hướng theo trường phái Balzac.
    Ông đồng thời là tác giả một số tiểu thuyết lịch sử.

  • JENNIFER WALKUP   

    Tôi sẽ không nói với ai về việc chẩn đoán.
    Không hé răng với mẹ hay em gái tôi. Chắc chắn không phải Jake và có lẽ với Steve cũng không hề.

  • GRAHAM GREEN

    Cái chết đến kề như một nỗi nghiệt ngã day dứt mà ta hổ thẹn không dám thổ lộ với bạn bè hoặc đồng nghiệp.

  • ELISABETH SILANCE BALLARD

    Một truyện ngắn cảm động về tình thầy trò. Truyện khiến người đọc có thể nghĩ chuyện xảy ra hôm nay, không phải cách đây hơn bốn mươi năm.

  • Tác giả tên đầy đủ là Heinrich Theodor Böll (1917 - 1985). Ông được coi là một trong những nhà văn lớn nhất của Đức thời hậu chiến. Năm 1972 ông được nhận giải Nobel Văn học. Tác phẩm và quan điểm chính trị của Böll thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội mang tính nhân văn. Các tiểu thuyết tiêu biểu của ông: “Thiên thần im lặng”, “Và tôi đã không nói một lời duy nhất”, “Nhà không có người che chở”, “Qua con mắt của chú hề”, “Bức chân dung tập thể với một quý bà”…

  • KATE CHOPIN

    Catherine O’ Flaherty sinh năm 1850 tại Saint Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hóa, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh.

  • Nhà văn, nhà thơ, triết gia, họa sỹ, dịch giả Ấn Độ Rabindranath Tagore sinh năm 1861 tại Calcutta, Ấn Độ và mất năm 1941. Ông để lại một di sản văn học - nghệ thuật đồ sộ với hàng ngàn tác phẩm đủ các thể loại. Tagore còn là nhà yêu nước, đòi giải phóng Ấn Độ khỏi sự cai trị của Anh. Ông được trao giải Nobel văn học năm 1913.

  • O’Neil De Noux sinh ngày 29/11/1950 tại New Orleans, bang Louisiana, Hoa Kỳ. Ông là một nhà văn Hoa Kỳ có sức sáng tác mãnh liệt với nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn, đã có 42 đầu sách được xuất bản. Phần lớn sáng tác của ông là truyện trinh thám hình sự, tuy nhiên ông cũng viết nhiều thể loại khác như tiểu thuyết lịch sử, truyện dành cho trẻ em, truyện khoa học viễn tưởng, kinh dị, tình cảm, v.v.

  • JASON HELMANDOLLAR

    Jason Helmandollar là một nhà văn người Mỹ, tác giả của nhiều truyện ngắn nổi tiếng được đăng trên các báo, tạp chí đang thịnh hành lúc bấy giờ như Encounters Magazine, Bartleby Snopes, Title Goes Here, Sideshow Fables. “The Backward Fall” là một trong những truyện ngắn hay và hấp dẫn của ông.

  • TIMUR JONATHAN KARACA

    Timur Jonathan Karaca được sinh ra ở San Francisco. Ông là bác sĩ y khoa khoa gây mê tại UCSF. Ông sống ở Oakland, nơi ông hành nghề. Karaca theo học sáng tác tại Studio Hi Nhà văn San Francisco.

  • Naguib Mahfouz (1911 - 2006) sinh ra trong một gia đình nghèo tại Cairo. Ông học triết học tại Đại học Cairo và làm công chức cho tới khi về hưu năm 1971. Mahfouz là nhà văn lớn của Arab và của thế giới. Ông có 35 tiểu thuyết, 14 tập truyện ngắn và nhiều tác phẩm kịch. Tác phẩm của ông rất phổ biến ở phương Tây. Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
    Truyện ngắn dưới đây diễn tả bi kịch của cá nhân khi bị phụ thuộc vào kẻ khác. Tuy nhiên, như rất nhiều tác phẩm khác của văn học Arab, nó còn mang tính ẩn dụ và nghĩa hàm ẩn.

  • ALBERT LAMORISSE (Pháp)

    Albert Lamorisse là một nghệ sĩ đa tài của nước Pháp. Ông vừa viết văn, làm thơ, vừa biên kịch và đạo diễn điện ảnh. Truyện "Quả bóng đỏ" (Le Ballon Rouge) này đã được chính Albert Lamorisse dựng thành phim, rất nhiều người hâm mộ.