Những bài thơ xưa nhất viết về vùng đất Huế xưa

09:55 10/12/2008
Cách đây 700 năm, vào năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa, bờ cõi Đại Việt được mở rộng. Hai châu Ô, Lý được vua Chế Mân cắt để làm sính lễ dâng vua Đại Việt. Sau đó, hai châu này được đổi thành châu Thuận và châu Hóa. Thuận Hóa được hình thành từ cơ sở đó.Những bài thơ chữ Hán viết về vùng đất này sớm nhất có thể kể đến như Hóa Châu tác (Làm ở Hóa Châu) vào khoảng năm 1354 của Trương Hán Siêu (?-1354); Hóa Thành thần chung (Chuông sớm ở Hóa Thành) của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428); Tư Dung hải môn lữ thứ (Nghỉ chân ở cửa biển Tư Dung) của Lê Tư Thành (vua Lê Thánh Tông 1442 - 1497)... Nhân kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006) TCSH trân trọng giới thiệu cùng độc giả ba bài thơ này.HẢI TRUNG giới thiệu

Nguyên văn chữ Hán:
         
  



  
Phiên âm:
HÓA CHÂU TÁC(1)

Ngọc kinh(2)hồi thủ ngũ vân(3)thâm
Linh lạc tàn sinh khổ bất câm
Dĩ biện hoang giao mai bệnh cốt
Hải thiên thảo mộc cộng thu ngâm.
Dịch thơ:                      
LÀM Ở HÓA CHÂU

Ngoảnh lại năm mây phủ đế đô
Hồn tàn bao xiết khổ bơ vơ
Thôi đành cõi rậm vùi xương bệnh
Cây cỏ chung sầu cũng hoạ thơ.
                                                         (Hoa Bằng)

Nguyên văn chữ Hán:




  
Phiên âm:         
HÓA THÀNH THẦN CHUNG

Viễn viễn tòng tăng tự
Sơ sơ lạc khách bồng
Triều sinh thiên địa hiểu
Nguyệt bạch hựu giang không

Dịch thơ:
CHUÔNG SỚM Ở HÓA THÀNH(4)

Xa xa vẳng tiếng chuông chùa
Thớt thơ đọng giữa thuyền đưa khách bồng
Triều dâng trời đất mênh mông
Sông đưa ánh bạc trăng cùng không gian.
                                                            (Hải Trung)

Nguyên văn chữ Hán:
 


 

清路




Phiên âm:                     
TƯ DUNG HẢI MÔN LỮ THỨ

Hỗn nhất xa thư (5) cộng bức viên
Hải Vân hoành giới việt nam thiên
Tam canh dạ tĩnh Đồng Long (6) nguyệt
Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc (7) thuyền
Di lạc phụng tham kỳ khoản tái
Khổn thần ái quốc xảo trù biên
Thử thân na đắc sinh hoàn hạnh
Cảm vọng Ban Siêu (8) đáo Tửu Tuyền (9).

Dịch thơ:
NGHỈ CHÂN Ở CỬA BIỂN TƯ DUNG

Cả mối cơ đồ một cõi chung
Về Nam địa giới Hải Vân giăng
Ba canh trăng tĩnh Đồng Long rạng
Năm tiếng trống lành Lộ Hạc rung
Đất ải man di này liệu nộp
Biên quan trấn giữ đã lo xong
Thân kia bảo mạng nào may mắn
Vọng tưởng Ban Siêu ở Tây vùng.

(nguồn: TCSH số 208 - 06 - 2006)

-----------------
(1) Trong tác phẩm Việt âm thi tập, có chú thích rằng, đây là bài thơ do Trương Hán Siêu làm lúc đang giữ chức Chiêu dụ đại sứ (khoảng năm 1354)
(2) Ngọc kinh: chỉ Kinh đô.
(3) Ngũ mây: mây ngũ sắc, ý chỉ nơi ở của vua.
(4) Hóa Thành là thành Hóa Châu (nay thuộc x.Quảng Thành, h.Quảng Điền, t.Thừa Thiên Huế), nguyên trước là thành cũ Champa, sau năm 1306, nhà Trần cho sửa chữa, nâng cấp và sử dụng, đến thời nhà Hồ, nhà Lê, nhà Mạc vẫn còn sử dụng.
(5) Xa Thư: Sách Trung Dung có câu: kim thiên hạ xa đồng quỹ, thư đồng văn, nghĩa là: ngày nay trong thiên hạ, bánh xe cùng một trục, chữ viết cùng một loại chữ. Ở đây chỉ sự thống nhất.
(6) Đồng Long: Vũng Đồng ở phía Nam Hải Vân.
(7) Lộ Hạc: tên một nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn: "Tháng 10 năm Canh tý [1360] thuyền buôn các nước Lộ Hạc, Trà Nha, Xiêm La đến Vân Đồn buôn bán, dâng vật lạ".
(8) Ban Siêu: tên nguời, Ban Siêu nguời đời Hậu Hán, có chí lớn, cầm quân đánh Tây Vực dẹp yên 50 nước.
(9) Tửu Tuyền: tên đất, địa danh này thuộc tỉnh Cam Túc (cửa ngõ của Trung Quốc qua Tây Vực).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN LOAN...Không thể vớt bóng trăng chìm đáy giếngcũng không thể xâu nỗi buồn thành chuỗi ngọc làm tin...

  • TRIỆU NGUYÊN PHONGĐi gần hết một đời mới nhớQuê nhàMái lá phên treCỏ cây vô tình như dòng khe nhỏChảy dài đến hết cơn mê

  • DZẠ LỮ KIỀUĐi qua...trăm suối ngàn khevẫn chưa tìm được đường về cội duyên

  • NGUYỄN VĂN QUANGNgười cúng vong linh cúi đầu khấn lạyNgười đốt vàng mã cho quỷ nhảy múaTiếng cười tiếng khóc tranh giành ngọn lửaLòng tro như máu chuyển mặt đen bầm

  • TRẦN TỊNH YÊNĐi qua dòng sông phù sa bật khóc. Dưới chânnấm độc gỗ đá chiêm bao.Bước xuống nhân gian làm người trần thếNhặt nghìn giọt lệ thả qua kiếp người

  • LÊ VĨNH THÁI...tìm ảo ảnh hào quang của chiếc đèn dầuchân lý ẩm mốc trăng mờ tỏ cũng là trăng...

  • LGT: Những dòng thơ này có một điều khác những dòng thơ khác là chúng được viết giữa những bản tin thời sự, giữa những cảnh quay hay những phút bất chợt im lặng ở phần hậu kỳ truyền hình... Những dòng thơ lắng nghe mình dặn mình, nghe tim mình rung lên giữa những ngày chưa đến, chưa qua và những ngày đã cũ, một cái gì đó rất xa ở thế giới này... Tất cả, đó là một cái gì đó rất thật như cuộc đời này, như thơ của những người làm báo.

  • một ngón ma thuậtmột ngón im lặngmột ngón kiếp trướcmột ngón đốm lửamột ngón tàn tro

  • Người con gái đã quay lưng và bước điNơi ấy tôi ngồi trong bóng chiềuGẩy tình tang lên cây đàn cũ

  • Có thể anh quay đivà khóctrong ngày em trở về…

  • Tháng 5một đêm hè nóng bỏngmặt đất gập ghềnh mặt trăng như con thuyền treo ngượctôi nhận một cái hônrồi ngỗ nghịch cười vang 

  • Viết cho Khang

  • Bên thềm mưa khoan nhặtNhững hạt mưa trong vắtMà khơi lắm nỗi niềm!

  • Cung đàn xưalắng vào tim thầm lặngbên em bao lần giữa Huế rồi xacâu Lý mười thương nghe sao mà thương quá!đưa ai về Vỹ Dạ, Kim Long…

  • Mỗi mùa hè con trở về thăm mẹMẹ tuổi cao như trái chín trên cây

  • Đường vô “bỉ ngạn” xanh rìCái đêm hôm ấy đêm gì, em ơi!Vầng trăng Đại nội bên trờiNghiêng soi mờ tỏ mặt người đế vương…

  • 17 tháng 6 ngày của ChaCon viết bài thơĐề lên bia mộĐất đã khô mà tim conVẫn ướt!Tháng năm dài Cha ở nơi mô?!

  • Ta dìu em đi về giữa yêu thương.Thoang thoảng trong gió hương hoa đồng cỏ nội.

  • Hàng chục năm xa quêNay lại vềăn bát cơm quêcủa mẹ

  • đêm miên man nắng hạtừng lớp phượng hồng lá vàng lót dưới chân emcả trong cơn mơ cũng có tiếng ve gọi mùa gay gắtmà anh dịu êm hiền hoà như đấtem tựa vào vồng ngực căng mềm như gối cưới tân hôn