Những bài ký của Miên Thẩm

14:27 25/11/2021

NGÔ THỜI ĐÔN

Trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870) lâu nay mới được dịch thuật, giới thiệu ít nhiều ở phần thơ.

Chân dung Tùng Thiện vương - Ảnh: wiki

Miên Thẩm cũng có văn xuôi. Tập Thương Sơn Văn Di do người con trai nhà thơ là Hồng Phì, tự Sĩ Thắng sưu tầm và khắc in có 34 bài, thuộc các thể quen thuộc của cổ văn. So với các nhà thơ lớn của nước ta thời Nguyễn thì hơn ba mươi bài văn xuôi không phải là ít! Từ trước, có lẽ do ảnh hưởng của hai câu Văn như Siêu, Quát vô Tin Hán; Thi đáo Tùng, Tuy, thất Thịnh Đường mà người nghiên cứu chỉ nghĩ đến thơ của Tùng Thiện chăng? Hai ông Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát tuy có làm văn song hai ông thực sự nổi tiếng về thơ. Cho nên, hai câu ấy là nói chung thơ-văn, chứ không có ý tách bạch ông Siêu, ông Quát giỏi văn (văn xuôi); ông Tùng, ông Tuy hay thơ (văn vần). Ở ta, có nhiều nhà thơ chỉ làm thơ, không làm văn hoặc ngược lại; Miên Thẩm là loại tác giả vừa có thơ, vừa có văn. Thực tế thì Miên Thẩm làm thơ nhiều hơn văn, nên vì thế mà giới nghiên cứu chú trọng dịch thuật, giới thiệu về thơ? Sự thật không hẳn thế. Công việc dịch thuật vốn rất gian nan nên khó đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu của người nghiên cứu muốn có tất cả thơ văn của một nhà.

Đọc kỹ tập Thương Sơn Văn Di, người viết cũng rất mong giới thiệu tất cả, song thấy không thể chu tất được. Vì thế, trong bài viết này, người viết chỉ xin dịch và giới thiệu qua về mảng ký của Miên Thẩm, mong sao cung cấp được một vài nét về tâm hồn tế nhị, chân thành của Miên Thẩm, một nhà thơ lớn của xứ Huế thời Nguyễn.

Miên Thẩm đã viết các bài ký: Con ngựa trng xám chất phác; Am An Dưỡng; Đề tên vào núi Ngũ Phong; Biệt hiệu Thương Sơn; Đình Sở Tụng; Ruộng tự đin Thanh Lam; Trại ruộng Cu Hậu. Nhìn chung, đây là những bài viết về Huế và các vùng phụ cận. Ký của Miên Thẩm xinh xắn, gọn gàng, không nhiều chi tiết, hình ảnh rực rỡ; nói như bây giờ, chúng không "đầy ắp" "ngồn ngộn" hiện thực. Chúng chỉ là những nét vẽ nhẹ nhàng, thanh thoát, những ý gợi hơn là tả. Chúng đơn sơ, im ắng như con đường vào núi Ngũ Phong. “Từ Dương Xuân, đi thuyn đến An cựu, lên bộ, theo đường thiên lý vào Nam, chưa đầy ba dặm, rẽ phi là đến núi Ngũ Phong". Cảnh sắc thiên nhiên trong bài ký cũng vậy, nó có vẻ tiêu sơ, thoáng ẩn thoáng hiện nhưng lại đậm đà phong vị cảnh Huế xưa: "Phía Tây chùa có mái nhà tranh, dưới nhà là khe sui, chảy từ đá trúc ra, đưa cao tiếng đàn, tiếng sáo quanh chùa. Nước rửa được, trúc cho bóng râm, khóm cao, khóm thp mọc theo suối quanh co, tạo nên cái thế như ngh ngơi, như ngửng lên, như đứt ri ni, như để dành cho thi nhân chỗ ngồi" (Ngũ Phong sơn đề danh ký)

Miên Thẩm rất yêu cảnh sắc quê hương. Huế đi vào thơ ông đã đẹp, Huế trong ký của ông cũng xinh lạ. Ngọn Thương Sơn, bến nước Thiên Mụ, Am An Dưỡng, núi Ngũ Phong... đều để lại cái vẻ riêng của chúng - trong ký của ông, từ thuở ấy. Ông muốn phả vào cảnh sắc thanh lịch của quê nhà cái tình đằm thắm của mình. Ngồi với vị sư già ở am An Dưỡng, trong một khoảng nhỏ vừa đủ thờ một pho tượng Di Đà, kê một chiếc giường, mà hai người nói chuyện say sưa quên cả trời chiều. "Giờ này, trời chiều sắp tắt, bn mặt núi non mây phủ, mưa lạnh theo gió đến, nước sui róc rách thành dòng, cùng ngi ở giường chùa, đun trà núi, nghe sui reo, lòng tự dưng phát sinh ý tưởng ngoại trn. Tôi hỏi Thượng Nhân: " trong ch ấy, "đắc" là thế nào ? Sư cười không đáp. Tôi xót xa, sư vừa già vừa bệnh, có mang quà tặng nhưng sư không nhận, tự nói là có hai người hu hạ trng rau đậu sớm tối đủ ăn, không mong cầu nhiu. Ôi, Thượng Nhân cũng rt kỳ lạ, đặc biệt đó chứ?" (Du An Dưỡng Am ký).

Đọc ký của Miên Thẩm, cùng ông đi lại, nhìn ngắm, cảm thông vẻ đẹp cảnh sắc quê nhà, không khỏi phát sinh ý tưởng muốn so sánh với hiện thực. Những gì Miên Thẩm ghi hồi ấy, hơn một trăm năm đã trôi qua mà hình như không thay đổi bao nhiêu (?) Trên mỏm đá trước bến Thiên Mụ, Miên Thẩm đã cùng bạn ngồi đó, nhìn lên một dải chập chùng ở phía Tây Nam mà "định vị" ngọn Thương Sơn. Thật rất lâu, người đọc văn cổ mới gặp một đoạn ký tha thiết về một ngọn núi quê hương như thế:

"Thương Sơn là núi của Phú Xuân; các ngọn Tây Nam kinh thành kết liền nhau, kéo dài quanh co, họp vẻ xanh, đua tranh vẻ đẹp, chẳng biết trong my ngọn tun tú, ni lên ch có ngọn này chăng ? Một hôm, tôi lên chùa Thiên Mụ, ngi sóng đôi với khách ở mỏm đá ni trên sông nói chuyện thời thế. Mặt trời lặn, khói núi chốc lát biến thành mưa nh ướt áo, nhìn bạn bảo: kết nhau kéo dài quanh co, họp vxanh, đua tranh v đp, m o không rõ, như có như không, trong mây mù nổi lên mà Thương Sơn vn sng sững đứng đó! Tôi bèn vịnh rng:

Giang thượng qun phong đạm dục vô,
Thiu thiều nhận vọng trung cô.
Nhược vi kht đắc Duy Ma bút
Trích th Thương Sơn tác họa đ

(Muôn núi trên sông như nhạt mờ,
Xa xa ngàn dặm vẻ đơn cô
Nếu xin được bút người Thi Phật,
Vẽ ly Thương Sơn, nét họa thơ !)

Thấy núi đẹp, Miên Thẩm muốn vẽ, nhưng tiếc là không có tài của Vương Duy, hiệu Duy Ma, nhà thơ kiêm họa sĩ tài hoa đời Đường, được người đời xưng là Thi Phật. Dù chưa vẽ, nhưng trong lòng ông, ngọn Thương Sơn đã hiện hình. Gọi là Thương Sơn vì núi ấy xa xanh lắm, tươi đẹp lắm, gọi như thế cũng là cách tỏ lòng ngưỡng mộ Viên Tử Tài, người đời Thanh. Khi về ở Giang Ninh, dưới chân núi Tiểu Thương, Tử Tài lấy hiệu là Thương Sơn. Tử Tài thuở trẻ tuấn kiệt, nhưng bước vào đời gặp toàn chuyện bất như ý, nên từ tuổi trung niên về sau, Tử Tài quay về vườn Tùy, làm thơ, viết văn kêu gọi khách giang hồ anh tuấn và thủy chung với vườn Tùy gần bốn mươi năm. Ý chí của Miên Thẩm thì có gì chưa giống với Tử Tài, nhưng tấm lòng Miên Thẩm đối với quê nhà thì như hòa được với Tử Tài. Tôi và Tử Tài, phong cách đến một nửa là không gặp nhau, lại sinh không cùng thời, đáng tiếc vậy. Giả sử cùng thời thì cũng cùng nhau viết ký đ truyền v sau...

Chọn Huế làm đất ở vĩnh viễn, vì ông sinh ra ở Huế, lớn lên ở Huế. Ông vốn có lòng yêu quý núi non, đồng bằng của Huế. Lòng yêu ấy lại thuận với ý muốn sống chân chất, thánh thiện, nên khi lỡ sinh ra trong cảnh quyền thế sang trọng, Miên Thẩm vẫn mong tự mình đi chân đất trên núi nhà, ruộng nhà, đường quê, Phò mã Phạm Kế không có con trai, Nguyệt Đình đã mua tám ruộng hơn ba mẫu ở Thanh Lam, ông cũng thấy lo và góp phần chăm sóc. Thân mẫu ông là bà Thục Tân, khi mất mọi thứ đều được chu toàn nhờ ơn vua lộc nước. Miên Thẩm không thấy yên lòng, vì mình chưa thể hiện đạo hiếu sau khi mẹ mất. Ông muốn tự mình làm thửa ruộng, vừa để bỏ thói "ngồi ăn không" vừa dâng lên mẹ tấm hình của người con thảo. Trại ruộng Cầu Hậu ra đời, ông gian nan vất vả tròn bốn năm, tốn kém mười mấy lượt, mất một vạn quan tiền. Khổ nổi gạch vụn ngổn ngang, đường cày va vấp, ruộng lại xa nước ngọt, mùa hè nước mặn dẫy lên... Miên Thẩm thường về đây đốc thúc con cháu người nhà dựng trại, đào mương, cấy cày... Ông tham dự cả những cuộc họp của phụ lão ba ấp Lễ Khê, Thế Lại, Bao Vinh, mừng rỡ khi họ chung lòng lo thủy lợi, khai mở chỗ tắc, đào lấp chỗ ngập. Kết quả bốn năm làm lụng, tiền hết, sức suy, nhưng ông tỏ ra lạc quan. Mỗi khi rỗi việc công, đến ruộng xem con trẻ, người nhà, cháu chắt cày bừa, nghĩ đến ngày lúa tốt dưa chín, cúng tổ tiên yến tiệc tân khách, một tiếng nói cười, ý xưa hòa mục (Hậu Kiều trang điền bi ký). Ông tự giác cái điều mà một kẻ sĩ chân chính thường tâm niệm "Cùng vui, cùng khổ với nông dân" Hạt thóc, bát cơm là mồ hôi nước mắt, không phải là của dễ dàng mà có. Ý chí tốt đẹp ấy đã tắm gội làm cho bản thân ông đã trong trẻo, thanh sạch nay lại thêm gần, thêm quí đối với người dân quê chân lấm tay bùn.

Dù sao, Miên Thẩm vẫn là một hoàng tử quyền quí, cho nên khi cúi mình trên khoảnh ruộng, ngập chân trong luống cày, không phải không băn khoăn trước dư luận thông thường. Miên Thẩm đã có lần soát xét lòng mình - một cách tự giác. May thay, vẻ sang trọng của ngựa xe, uy quyền của con vua cháu chúa không xóa nổi bản chất hồn hậu của ông! Phác thông ký (bài ký về ngựa trắng xám chất phác) là một câu chuyện tưởng tượng hơn là sự thật và rất đỗi cảm động về bản chất của chính ông! Miên Thẩm cho rằng trước khi Bá Nhạc - một người sành ngựa ở Trung Quốc - ra đời, ngựa rất chân chất, không hề biết gò bó, vinh nhục, roi ngọc, đàm ngà, yên báu ràng buộc, ông tưởng tượng chú ngựa ấy nói rằng: "K tôi tớ này sinh ra từ bờ cát lạnh, để c xanh. Tai gn, mắt bao, mũi lớn, đầu gi tròn, con ngươi tía, miệng đỏ, tài vượt hơn bầy..." Rồi, Bá Nhạc ra đời, ngựa hết chất phác. "Bỗng nhiên bờm ri, lông dơ, ti tăm ơn sáng, cúi đu hí gió, ngoái bóng tiếc thương !... Ăn thức ăn của người, mặc áo qun của người, thân thể thm ơn, râu lông cạo gọt, sự thờ chủ còn hơn thế này..."

Phác thông ký là nét bút nhọn và sắc Miên Thẩm ngầm tự họa chân dung mình. Bản chất của ông rất ghê sợ sự pha tạp, uốn nắn, sửa sang, cạo gọt, để rồi cung phụng suốt đời, xa hẳn tính tự nhiên.

Miên Thẩm yêu đường cày, hạt thóc bao nhiêu thì ông càng quí giọt mồ hôi của người dân lam lũ bấy nhiêu, càng muốn xây dựng nếp nhà thanh bạch, cần lao bội phần. Mái đình Sở Tụng dựng trong khoảnh vườn nhà ông thể hiện ước mơ mà thời Tống, nhà văn lớn Tô Đông Pha rất tha thiết. Ông Pha chỉ mong dựng đình Sở Tụng, trồng một trăm gốc quít, đến khi mất, ước mơ vẫn chỉ là ước mơ! Miên Thẩm đã dựng đình ấy, gọi là "nên ý ông Pha". "Đình thật bé, chứa được một chiếc giường một án thư mà thôi... Khi qut chưa chín, sau k sương giáng, mặt trời lặn phía trước, vẻ lung linh cao thấp trong chén rượu..." Đây là một "giang sơn thu gọn" đầy vẻ cảm thông, trân trọng. Những con người xưa đáng yêu đáng quí như Khuất Nguyên, Tô Đông Pha cũng có ở đâu đây "...Hoặc khi gặp bạn hin, mang rượu vào đình, khiến tiêu đồng mang giỏ theo giúp. Ung được một nửa rượu, hơi nóng phả trong gió thu, hát bài "ca cây quít” của Linh Quân, trông v phương Bắc, rót rượu xung đất, cảm khái tương liên ! Bình rượu vang lanh canh như muốn vỡ, tiểu đng, gia nhân kinh hãi ngoái lại cho là say ! Hoặc bo: Đây là em của Linh Quân! Hoặc cho là em của Đông Pha. Không ngớt luận bàn..."

(Sở Tụng đình ký)

Không, Miên Thẩm không say, ông còn tỉnh lắm. Đây chỉ là phút giây giũ hốt chút bụi còn vướng trong tâm của một nhà thơ hoàng tộc đáng yêu của Huế. Ngoài chốn triều đình phức tạp, ngoài mái gia đình còn bề bộn, hai nơi yên ổn, vỗ về được tâm hồn Miên Thẩm là núi rừng và ruộng đồng xứ Huế. Một nơi gieo mồ hôi để gặt hạt thơm, một nơi lắng lòng nghe mưa thấm áo, mắt nhòa đi vì sương khói tiêu sơ. Tất cả gom vào thơ ông, văn ông, vút cánh thơ ông, bay khỏi mái Sở Tụng đình, đưa hồn thơ Miên Thẩm chấp chới trong khoảng Hương Giang - Lợi Nông - Thương Sơn và kinh thành Phú Xuân thanh lịch và cần lao...

N.T.Đ
(TCSH50/07&8-1992)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.