Những ánh lửa thắp từ cõi nhớ

09:02 04/09/2008
HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

Cho từng ánh lửa, tập thơ đầu tiên của sự đam mê và giàu dự cảm của Hải Trung là chứng chỉ cho những gì được ấp ủ từ nguội lạnh đến bập bùng, được vực dậy từ cõi quên và cõi nhớ của chính tác giả.
Nếu phát minh kỳ diệu của loài người là tạo lửa và giữ lửa thì đến lượt nó, lửa đã lưu giữ bao nhiêu huyền thoại tình yêu và hiện thực cuộc đời. Nó thể hiện mặt hiển minh của sự chiếm lĩnh sự sống từ thuở có con người trên trái đất với hình thức thô sơ nhất của nó. Tôi bắt gặp trong thơ Hải Trung chất suy tư, tự nghiệm ấy bằng cách đi ngược thời gian để đòi "trả lại ta nếp gấp trên tay" để nhận ra sự mong manh và thiêng liêng của lửa "Lửa bén lên vưông chiếu của từng số phận - Để lại tro than đằm thắm sắc màu - Để lại tháng năm cùng nhiều nghi vấn" và cuối cùng nhận ra qui luật muôn đời "lửa vẫn thắp lên từ phía chân trời" của mộng mơ, ước khát.
Sự tìm lại thời gian cũng là cách để hiểu những chứng tích lưu giữ trên từng sự vật, hiện thực trần thế, kể cả những gì mỏng manh, hút hắt nhất là cái chết và hư vô.
Hải Trung đã dựng lại các chiều của thời gian, qua đó tạo hệ qui chiếu thời gian - không gian.
- Lối gạch cũ đón gót hài năm cũ
- Ngẩn ngơ xanh theo lối cũ trồi lên
- Sông hư ảo từng vùng nhẵn bóng
Cả tiếng cười trên môi, trái tim trong lồng ngực cũng đều là thời gian và không gian hoá trong nhau: "Em ví ngực anh - hạt lúa lép cuối mùa... Những chuỗi cười đã lên rêu bổi hổi".
Những người làm nhang là bài thơ giàu suy tư và liên hệ lạ. Nhìn những que nhang xếp hình xoè hoa phơi giữa mặt đường, tác giả liên tưởng đến "hương thời gian", rồi nghĩ đến khói hương huyền vũ cô độc "phận mình ngún khói tháng năm". Vậy mà, cái dễ tan biến vào thinh không ấy lại là cái "gạch nối không lời" nối hai cõi thế: dương gian và âm giới. Hữu thể và hư vô khúc xạ vào nhau qua hình ảnh làn hương gửi theo ngọn gió.
            Những cánh nhang phơi giữa chân trời
            Khúc xạ ngày đêm cựa mình theo gió.
Tác giả dành gần nửa tập thơ để nói về thời gian. Những tiêu đề bài thơ không hề vô nghĩa mà là những ám ảnh, là sự thức nhận cá nhân: Thời gian, Có thoáng mùa thu, Chuyện tháng năm, Sự đi qua, Mùa trôi, rồi từ Những tháng ngày không tên quay về Giấc mơ cổ tích. Hành trình thời gian đi từ cụ thể đến thăm thẳm nhạt nhoà mà chiều quay hướng về quá vãng. "Ký ức", "hồi ức", "dư âm", "dấu cũ", "năm cũ", "vườn cũ", "cổ tích"... là những day dứt của người thơ. Nhờ nẻo về này mà cõi nhớ hiện lên: "Vét trong cái quên thức giấc cái nhớ". Tác giả đã đánh thức từng Ký ức xanh, Ký ức nâu, Ký ức mưa, Ký ức mờ xa cổ tích... qua đó để "dựng nụ cười trang nghiêm" và tạo hương thơm cho chuỗi lãng quên từ "những tháng ngày không tên", "để cho giấc mộng nhói đau chân trời" và "mùi hương ghim nỗi nhớ quê nhà"...
Hiện tại tính từ mốc ngày sinh là thời gian hiện thực bắt đầu. Trong cái quỹ tuổi đời người, thêm một tức là vơi một. Đó là sự xuẩn ngốc của thời gian. Một bình minh hồng tươi hay một đêm mưa giá buốt, con người không có quyền lựa chọn để sinh ra lại là định mệnh có thật. Con người đi giữa khúc dạo khúc kết. Còn khúc ngân vượt ra ngoài hành trình khép kín này chính là khát vọng vĩnh hằng do con người tạo ra trong khoảng nhân sinh ấy. Chưa tìm thấy trong thơ Hải Trung có khúc dạo và khúc kết, chỉ thấy câu hỏi và câu đáp vừa mơ hồ vừa cụ thể.
            Hỏi: Dáng bao nhiêu tuổi
            Đáp: Tóc người vội sương
Rồi lại vội vã quay về điểm mốc ban đầu để nghe tiếng khóc "tự ban sơ lọt lòng". Có bi quan lắm không? hay là tác giả triết lý theo kiểu "hữu hoàn vô" mà vội sợ cho sự hiện hữu vật chất của mình? Dẫu gì, câu trả lời vẫn còn trong im lặng, chỉ còn đây tiếng khóc ban sơ - là một lời nhắc nhở.
Cho từng ánh lửa cũng dành phần nhiều để ngẫm về đời tư, thế sự và tình yêu. Hải Trung không lý sự mà chủ yếu là bình và cảm nhận những vấn đề trên theo cách riêng của mình để "mọi ý nghĩ xé lẻ thành từng đốm sáng", "Ta một mình, ừ nhỉ có đôi khi - Ngồi đối thoại với khuôn mặt rỗng".
            - Cứ phóng đãng mà nương theo gió
             Mà long tong nhịp xuống mạn thuyền
             Mà đẩy đưa mái chèo đưa đẩy
             Chuỗi âm thanh rò rỉ màn đêm
            - Đêm đồng loã tình yêu ngày con gái           
Để hôm nay chăn chiếu lạnh lưng trần.
Trong ớn lạnh của cõi vô thức mà vẫn nghe được sự "im lặng choàng qua vai" quả là sự đợi chờ đã chín. Và dù trong ngang trái, một nhen nhóm khác lại hiện lên từ ký ức tình ca.
            Bài hát vẫn vọng vang trong ký ức
            Nhắn niềm tin trong ngực
            Nỗi đau em trái gió lại đâm mùa.
Và như một lây lan của cảm giác trong mơ để được vỗ về, an ủi.
            Ru là nuôi ướt cơn mưa
            Ru là nắng sớm vàng lưa thưa thềm
            Ru là mắt phố lim dim
            Em như trốn giữa lặng im chưa về.
Đi từ mình đến tha nhân, thơ Hải Trung phảng phất nỗi buồn nhân thế. "Nghĩ trước đá vọng phu" là suy nghĩ mới về những điều đã cũ, đồng vọng trong xao xác những linh hồn đã lãng đãng giữa núi ngàn xa ngái để còn đây "Thiếu phụ bồng mây đầu khe ngọn suối, tự nghe "Thời gian rùng mình tóc rối - Lấm tấm buồn gió sượt qua vai". Trước đá vọng phu, tác giả liên hệ đến mình, lỡ cái ngày không còn có mặt trên đời. "Có bao giờ để đá vọng ngu ngơ"?
Nhân đọc văn từ mệnh của Tự Đức, tác giả đã dựng lại chân dung trừu tượng nhưng giàu liên tưởng về một vị hoàng đế - thi sĩ tài hoa nhưng đầy rủi may, bi kịch trong cuộc thử vận "sấp ngửa cơ may bám víu cuộc đời". Đâu rồi quyền uy của văn từ mệnh để còn đây nỗi đau thời thế và tâm trạng bi ai giằng xé giữa hai bờ hư - thực, giữa niềm tin và bất lực, giữa sự khẳng định và sự bám víu vào mệnh trời. "Lễ đăng quang niềm vui chợt tắt" mà vẫn dám gánh vác non sông trong mưa cầu số phận được bình an để cuối cùng không tránh khỏi sự buông xuôi, vô vị, kinh hoàng, tự trách mình và thời thế.
            Lễ đăng quang cuối thời tàn cuộc
            Để lòng người chuếnh choáng giữa sơn khê
            Bao kinh hoàng bước dài bất trắc
            Gôm nỗi buồn trang sức cơn mê+
Bi kịch nhà vua, bi kịch tinh thần là không thể khác "theo nhau trào lên ngọn tóc- Bạc những sợi đang hãy còn xanh".

Tuy chưa tạo được những phức điệu ổn định cho thơ nhưng từ những ám ảnh quá vãng, từ dấu cũ, mùa xưa, từ những ký ức và lãng quên, từ sự xáo động của thời gian tâm lý và sự đam mê dại ngộ trong tình yêu, Hải Trung đã dự cảm những tín hiệu thơ đáng chú ý. Nỗi u hoài không định trước được tác giả gọi về phía có bập bùng ánh lửa trong cõi thẳm của lòng, trong phía đường chân trời hé đỏ của khát khao hạnh phúc, và khát vọng thi ca. Tuy vậy, Cho từng ánh lửa vẫn còn những hụt hẫng, nuối tiếc trong người đọc vì những cảm xúc nhẹ và những tứ thơ còn tản mát. Và vì thế, sự vượt trội lên trong các tập thơ sau của Hải Trung về ngôn ngữ, hình ảnh, triết luận... là mong mỏi, hy vọng của nhiều người và là sự nỗ lực của Trung.
Huế, 12-1999
H.T.H
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.