Nhìn lại văn học Việt Nam qua lăng kính của một "hội chứng"

16:01 15/12/2009
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.


Cách đây 5 năm, tôi mười tám tuổi và cũng hăm hở với văn chương không kém gì ai, non nớt và thơ ngây trong nghề viết nhưng bù lại tôi có con mắt nhìn nhậy bén đã được tôi luyện qua quá trình nghiên cứu văn hóa. Tôi đã gửi cả hoài bão muốn kêu gọi sự thay đổi nghề văn trong nước vào bản tham luận dự hội nghị những người viết văn trẻ. Tôi đã đề cập đến cái gọi là "đúng đắn về mặt văn học" (literature correct) với sự tách bạch giữa văn học đích thực và văn học thương mại, giải trí. Vậy mà bản tham luận đó đã bị tảng lờ, không hiểu do tôi còn quá trẻ hay do sự đổi mới đó với các bậc đàn anh là không cần thiết.

Thực tế, khoảng 10 năm trở lại đây, ta đã lầm lẫn quá nhiều rồi hay nói rõ hơn là ta đã xào xáo cái thứ văn chương thương mại nọ với văn chương đích thực thành một thứ tạp phí lù. Người ta đã quá mù mịt đến mức coi một cuốn sách bất kỳ của một nhà văn bất kỳ là một tác phẩm văn học. Dù rằng văn chương là hữu xạ tự nhiên hương và không thể dùng chuẩn mực nào làm thước đo cho nó cả nhưng đấy là văn chương theo đúng nghĩa của nó. Ai dám tôn vinh một mẩu thông tin trên nhật báo là văn học nào? Thế mà nhiều cuốn sách (tôi không dùng từ "tác phẩm") chỉ dừng ở mức độ mượn ngôn ngữ văn học mô tả chuyện bên lề lại được đặt lên giá sách cùng những tác phẩm mẫu mực. Ta chê bai phương Tây vì cái lối sống công nghiệp lạnh lùng của họ nhưng thực tế ta thua họ ở cái mức độ công nghiệp ấy.

Kể từ thập kỷ 50, khi mà sự bùng nổ của thông tin manh mún ở Châu Âu, Châu Mỹ thì người ta đã bắt đầu có những thay đổi đúng đắn trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Người ta chia ra làm 2 loại có ranh giới rõ rệt: nghệ thuật bác học và nghệ thuật công nghiệp. Nghệ thuật bác học là cái vĩnh hằng và được dùng làm công cụ để đánh giá những dịch chuyển về phần hồn của xã hội con người qua từng thời kỳ, còn nghệ thuật công nghiệp chỉ là thứ ấn phẩm thương mại hoàn toàn. Nó như là một thứ hàng hóa đáp ứng nhu cầu giải trí, nhu cầu tò mò, nhu cầu cười... của con người sau 8 giờ lao động cật lực mỗi ngày mà thôi. Khoảng 1 năm trở lại đây, các báo chí ở Việt Nam bắt đầu cho đăng tải cái gọi là danh mục "sách bán chạy" (best-sellers). Từ đó hễ có cuốn sách nào lọt vào danh sách mà hơi dính líu tới văn học một chút là y rằng người ta tung hô nó lên cũng như vùi đập nó xuống để mà tạo ra hiện tượng. Có ai chịu để ý một điều, bên cạnh nó, cũng nằm trong danh mục ấy đôi khi là cả sách dậy nấu ăn... Phương Tây cũng có cái gọi là best - sellers ấy nhưng mặt bằng văn hóa của dân chúng họ cao hơn ta nhiều nên nhiều khi cũng có các tác phẩm văn học nằm trong đó. Nhưng ở Phương Tây, không phải cứ best - sellers là trở thành hiện tượng văn học. Người ta thừa hiểu trong best - sellers còn có cả các loại sách khác, ví dụ như đợt World cup 98 vừa rồi cuốn "niên giám bóng đá" là một best - sellers hay là cách đây dăm năm, "Chuyên quan hệ tình dục bí mật của Jack Nicholson (một diễn viên nổi tiếng)" cũng đứng thứ hai trong danh sách. Ôi, văn chương mà ngang hàng cùng niên giám và tình dục ư? Thật xấu hổ.

Thế mà ở ta cũng lộn sòng chuyện ấy. Cuốn "CD & ĐT" của ông TĐK lọt vào danh mục bán chạy và thế rồi người ta rùm beng lên là "hiện tượng phê bình văn học hiện đại". Đúng đắn ra, xét về mặt chuyên nghiệp hóa văn học (hay bóng bẩy hơn là xã hội hóa) thì đây là một bước tiến đáng vỗ tay trưởng thưởng đối với ngành công nghiệp văn học giải trí và công nghiệp xuất bản. Nhưng nhìn về khía cạnh văn chương hoàn toàn nghiêm túc, đây rõ ràng là một bước lùi, là 1 hậu quả của căn bệnh "hội chứng" trầm kha mất rồi. Xuyên suốt cuốn sách chỉ toàn những chuyện nhặt nhạnh bên lề chẳng khác gì những chuyện kể đằng sau cành gà của một ban nhạc nổi tiếng. Thế mà dám gọi là phê bình ư? Với Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Ngô Tất Tố... không chỉ là 1 bài viết nhỏ như bài báo mà có thể đánh giá hết sự nghiệp đồ sộ của họ. Theo tôi riêng Nguyễn Tuân, để nói hết về ông và nghiệp văn của ông chí ít phải mất vài cuốn sách dày như "CD & ĐT" mới gọi là tạm đủ. Xin đừng tự huyễn hoặc nhau làm gì khi mà so với quốc tế ta chẳng biết giờ đây thơ và tiểu thuyết họ đang biến đổi tới mức nào, thể loại nào & trường phái nào. Đừng tự coi cuốn sách giải trí ấy là một dòng văn học phê bình mới. Xin lỗi ông TĐK, nếu tôi là biên tập, tôi sẵn sàng gạch ngay cái dòng "bình luận văn chương" dưới đầu đề sách của ông.

Hơn thế nữa, thật đáng buồn khi ta nhìn vào nền phê bình văn học nước nhà. Ngày xưa ta có Hoài Thanh, Hà Xuân Trường, Phan Cự Đệ, Hoàng Thiếu Sơn uyên bác bao nhiêu thì giờ đây nhìn lại ta chỉ hiện có 1 đội ngũ lộn xộn và không chuyên nghiệp. Điểm đi điểm lại, tôi chỉ thấy có Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử, Vương Trí Nhàn, Đinh Quang Tốn, Đông La, Lê Quý Kỳ... hay trẻ hơn thì có Trần Mạnh Hảo là những nhà phê bình đích thực. Đã là phê bình là phải khác, phải có thẩm mỹ, có khoa học và phải tinh tế. Thế mà hiện nay, bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào cũng nhảy vào cuộc để phê cái này bình cái kia. Họ đâu có biết đó là cái cảm nhận chủ quan của họ, cái cảm nhận mang tính đồng cảm không hề dựa vào bất kỳ 1 nền tảng học thuật nào cả. Đâm ra nhiều khi bình văn thành bình lộn, bình loạn. Đó là hậu quả của thói tự mãn coi mình là cây đa cây đề rồi phán cái này, ban cho cái nọ 1 ít lời khen chê. Từ đó dẫn tới cái trào lưu vác bút đi bình phẩm người khác, tranh cãi nhau bằng ngôn ngữ văn học rồi đến khi mất bình tĩnh là sẵn sàng thóa  mạ nhau ngay. Bởi thế cho nên mới đâm ra có "hiện tượng". Thử nhìn lại, văn học Việt Nam phải vài chục năm, may ra mới có 1 người vượt qua cái ngưỡng tuyệt tác để thành hiện tượng. Thế mà nay, tôi đếm sơ sơ từ 1989 tới giờ đã có hơn chục "hiện tượng" rồi. Theo tôi nên gọi là "hiện tưởng" thì hơn. Nên hiểu trên thế giới người ta thường chỉ dùng từ hiện tượng để gắn cho ai đã đem lại một phong cách, một thể loại mới.

Trở lại CD & TĐ của ông Khoa, rõ ràng tôi thấy đó chỉ là 1 cuốn sách bên lề mà thôi. Trong đó, tôi chỉ gặp toàn những chuyện phiếm và những lời ca ngợi hoặc chê bai cẩu thả. Đôi khi tôi nghĩ rằng ông Khoa chỉ khen chê cho đã mồm, cho thỏa cái yêu ghét vị kỷ của mình. Chuyện "hạt thóc" là 1 ví dụ, ai dám nói đó là của Phù Thăng. Nếu hỏi 1 đệ tử ruột của tờ Tuổi trẻ Cười chắc chắn là ta phải bẽ mặt lắm. Câu chuyện "hạt thóc" nguyên tác là 1 chuyện cười của phương Tây lưu hành từ thập kỷ 70 để phản kháng lại cái xã hội tư bản tiêu thụ công nghiệp mà con người phải đạp lên nhau mà sống. Nó mang ý nghĩa châm biếm rằng "mày không điên tao bắt mày phải điên, mày không hòa nhập vào guồng máy phũ phàng của cuộc sống thì mày sẽ chết". Nguyên văn tôi xin kể như sau:

"Paul là một người điên vì lúc nào cũng nghĩ mình là hạt thóc nên anh rất sợ gà. Gia đình liền đưa anh ta vào bệnh viện tâm thần. Sau 1 thời gian, thấy Paul tiến triển tốt, bác sĩ nói:

- Paul, nếu cậu trả lời tốt, cậu sẽ được xuất viện. Nào, cậu là cái gì?

- Dạ, tôi là người, tôi không phải là hạt thóc. Nhưng...

- Nhưng sao?

- Nhưng tôi sợ bọn gà nó lại không nghĩ thế".

Nếu so sánh, rõ ràng truyện cười trên còn súc tích hơn là truyện của Phù Thăng. Với một xã hội tiêu thụ công nghiệp, cần gì cứ phải làm thơ và biết tiếng Pháp mới là điên. Thế mà 1 truyện ngắn "cười không ra cười, khóc không ra khóc" ấy lại được ông Khoa khen nức nở, khen đến nỗi tự ông cứ tưởng mình là hạt thóc.

Nhìn chung, chúng ta cần phải nghiêm túc hơn để mà chuyên nghiệp hóa nghề văn, chuyên nghiệp hóa phê bình văn học. Người ta đã chẳng nói nhiều tới việc độc giả thờ ơ với văn học hay sao. Hãy nhìn lại đi, chính chúng ta cũng có lỗi. Hãy có sự tách bạch rõ ràng trước khi chưa muộn. Đừng để đến lúc sau này trong tiềm thức của con cháu ta văn học chỉ còn là 1 khái niệm mơ hồ mà vô thực. Hệ quả đó biết đâu sẽ có lúc giải thưởng văn học sẽ được trao tặng cho 1 quảng cáo cho xe HonDa hay điện thoại di động gì đó. Hãy hành động đi, hành động cho đúng đắn trong lúc vẫn còn kịp.

H.Q.M
(123/05-99)



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.