Nhìn lại văn học Việt Nam qua lăng kính của một "hội chứng"

16:01 15/12/2009
HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.


Cách đây 5 năm, tôi mười tám tuổi và cũng hăm hở với văn chương không kém gì ai, non nớt và thơ ngây trong nghề viết nhưng bù lại tôi có con mắt nhìn nhậy bén đã được tôi luyện qua quá trình nghiên cứu văn hóa. Tôi đã gửi cả hoài bão muốn kêu gọi sự thay đổi nghề văn trong nước vào bản tham luận dự hội nghị những người viết văn trẻ. Tôi đã đề cập đến cái gọi là "đúng đắn về mặt văn học" (literature correct) với sự tách bạch giữa văn học đích thực và văn học thương mại, giải trí. Vậy mà bản tham luận đó đã bị tảng lờ, không hiểu do tôi còn quá trẻ hay do sự đổi mới đó với các bậc đàn anh là không cần thiết.

Thực tế, khoảng 10 năm trở lại đây, ta đã lầm lẫn quá nhiều rồi hay nói rõ hơn là ta đã xào xáo cái thứ văn chương thương mại nọ với văn chương đích thực thành một thứ tạp phí lù. Người ta đã quá mù mịt đến mức coi một cuốn sách bất kỳ của một nhà văn bất kỳ là một tác phẩm văn học. Dù rằng văn chương là hữu xạ tự nhiên hương và không thể dùng chuẩn mực nào làm thước đo cho nó cả nhưng đấy là văn chương theo đúng nghĩa của nó. Ai dám tôn vinh một mẩu thông tin trên nhật báo là văn học nào? Thế mà nhiều cuốn sách (tôi không dùng từ "tác phẩm") chỉ dừng ở mức độ mượn ngôn ngữ văn học mô tả chuyện bên lề lại được đặt lên giá sách cùng những tác phẩm mẫu mực. Ta chê bai phương Tây vì cái lối sống công nghiệp lạnh lùng của họ nhưng thực tế ta thua họ ở cái mức độ công nghiệp ấy.

Kể từ thập kỷ 50, khi mà sự bùng nổ của thông tin manh mún ở Châu Âu, Châu Mỹ thì người ta đã bắt đầu có những thay đổi đúng đắn trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Người ta chia ra làm 2 loại có ranh giới rõ rệt: nghệ thuật bác học và nghệ thuật công nghiệp. Nghệ thuật bác học là cái vĩnh hằng và được dùng làm công cụ để đánh giá những dịch chuyển về phần hồn của xã hội con người qua từng thời kỳ, còn nghệ thuật công nghiệp chỉ là thứ ấn phẩm thương mại hoàn toàn. Nó như là một thứ hàng hóa đáp ứng nhu cầu giải trí, nhu cầu tò mò, nhu cầu cười... của con người sau 8 giờ lao động cật lực mỗi ngày mà thôi. Khoảng 1 năm trở lại đây, các báo chí ở Việt Nam bắt đầu cho đăng tải cái gọi là danh mục "sách bán chạy" (best-sellers). Từ đó hễ có cuốn sách nào lọt vào danh sách mà hơi dính líu tới văn học một chút là y rằng người ta tung hô nó lên cũng như vùi đập nó xuống để mà tạo ra hiện tượng. Có ai chịu để ý một điều, bên cạnh nó, cũng nằm trong danh mục ấy đôi khi là cả sách dậy nấu ăn... Phương Tây cũng có cái gọi là best - sellers ấy nhưng mặt bằng văn hóa của dân chúng họ cao hơn ta nhiều nên nhiều khi cũng có các tác phẩm văn học nằm trong đó. Nhưng ở Phương Tây, không phải cứ best - sellers là trở thành hiện tượng văn học. Người ta thừa hiểu trong best - sellers còn có cả các loại sách khác, ví dụ như đợt World cup 98 vừa rồi cuốn "niên giám bóng đá" là một best - sellers hay là cách đây dăm năm, "Chuyên quan hệ tình dục bí mật của Jack Nicholson (một diễn viên nổi tiếng)" cũng đứng thứ hai trong danh sách. Ôi, văn chương mà ngang hàng cùng niên giám và tình dục ư? Thật xấu hổ.

Thế mà ở ta cũng lộn sòng chuyện ấy. Cuốn "CD & ĐT" của ông TĐK lọt vào danh mục bán chạy và thế rồi người ta rùm beng lên là "hiện tượng phê bình văn học hiện đại". Đúng đắn ra, xét về mặt chuyên nghiệp hóa văn học (hay bóng bẩy hơn là xã hội hóa) thì đây là một bước tiến đáng vỗ tay trưởng thưởng đối với ngành công nghiệp văn học giải trí và công nghiệp xuất bản. Nhưng nhìn về khía cạnh văn chương hoàn toàn nghiêm túc, đây rõ ràng là một bước lùi, là 1 hậu quả của căn bệnh "hội chứng" trầm kha mất rồi. Xuyên suốt cuốn sách chỉ toàn những chuyện nhặt nhạnh bên lề chẳng khác gì những chuyện kể đằng sau cành gà của một ban nhạc nổi tiếng. Thế mà dám gọi là phê bình ư? Với Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Ngô Tất Tố... không chỉ là 1 bài viết nhỏ như bài báo mà có thể đánh giá hết sự nghiệp đồ sộ của họ. Theo tôi riêng Nguyễn Tuân, để nói hết về ông và nghiệp văn của ông chí ít phải mất vài cuốn sách dày như "CD & ĐT" mới gọi là tạm đủ. Xin đừng tự huyễn hoặc nhau làm gì khi mà so với quốc tế ta chẳng biết giờ đây thơ và tiểu thuyết họ đang biến đổi tới mức nào, thể loại nào & trường phái nào. Đừng tự coi cuốn sách giải trí ấy là một dòng văn học phê bình mới. Xin lỗi ông TĐK, nếu tôi là biên tập, tôi sẵn sàng gạch ngay cái dòng "bình luận văn chương" dưới đầu đề sách của ông.

Hơn thế nữa, thật đáng buồn khi ta nhìn vào nền phê bình văn học nước nhà. Ngày xưa ta có Hoài Thanh, Hà Xuân Trường, Phan Cự Đệ, Hoàng Thiếu Sơn uyên bác bao nhiêu thì giờ đây nhìn lại ta chỉ hiện có 1 đội ngũ lộn xộn và không chuyên nghiệp. Điểm đi điểm lại, tôi chỉ thấy có Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử, Vương Trí Nhàn, Đinh Quang Tốn, Đông La, Lê Quý Kỳ... hay trẻ hơn thì có Trần Mạnh Hảo là những nhà phê bình đích thực. Đã là phê bình là phải khác, phải có thẩm mỹ, có khoa học và phải tinh tế. Thế mà hiện nay, bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào cũng nhảy vào cuộc để phê cái này bình cái kia. Họ đâu có biết đó là cái cảm nhận chủ quan của họ, cái cảm nhận mang tính đồng cảm không hề dựa vào bất kỳ 1 nền tảng học thuật nào cả. Đâm ra nhiều khi bình văn thành bình lộn, bình loạn. Đó là hậu quả của thói tự mãn coi mình là cây đa cây đề rồi phán cái này, ban cho cái nọ 1 ít lời khen chê. Từ đó dẫn tới cái trào lưu vác bút đi bình phẩm người khác, tranh cãi nhau bằng ngôn ngữ văn học rồi đến khi mất bình tĩnh là sẵn sàng thóa  mạ nhau ngay. Bởi thế cho nên mới đâm ra có "hiện tượng". Thử nhìn lại, văn học Việt Nam phải vài chục năm, may ra mới có 1 người vượt qua cái ngưỡng tuyệt tác để thành hiện tượng. Thế mà nay, tôi đếm sơ sơ từ 1989 tới giờ đã có hơn chục "hiện tượng" rồi. Theo tôi nên gọi là "hiện tưởng" thì hơn. Nên hiểu trên thế giới người ta thường chỉ dùng từ hiện tượng để gắn cho ai đã đem lại một phong cách, một thể loại mới.

Trở lại CD & TĐ của ông Khoa, rõ ràng tôi thấy đó chỉ là 1 cuốn sách bên lề mà thôi. Trong đó, tôi chỉ gặp toàn những chuyện phiếm và những lời ca ngợi hoặc chê bai cẩu thả. Đôi khi tôi nghĩ rằng ông Khoa chỉ khen chê cho đã mồm, cho thỏa cái yêu ghét vị kỷ của mình. Chuyện "hạt thóc" là 1 ví dụ, ai dám nói đó là của Phù Thăng. Nếu hỏi 1 đệ tử ruột của tờ Tuổi trẻ Cười chắc chắn là ta phải bẽ mặt lắm. Câu chuyện "hạt thóc" nguyên tác là 1 chuyện cười của phương Tây lưu hành từ thập kỷ 70 để phản kháng lại cái xã hội tư bản tiêu thụ công nghiệp mà con người phải đạp lên nhau mà sống. Nó mang ý nghĩa châm biếm rằng "mày không điên tao bắt mày phải điên, mày không hòa nhập vào guồng máy phũ phàng của cuộc sống thì mày sẽ chết". Nguyên văn tôi xin kể như sau:

"Paul là một người điên vì lúc nào cũng nghĩ mình là hạt thóc nên anh rất sợ gà. Gia đình liền đưa anh ta vào bệnh viện tâm thần. Sau 1 thời gian, thấy Paul tiến triển tốt, bác sĩ nói:

- Paul, nếu cậu trả lời tốt, cậu sẽ được xuất viện. Nào, cậu là cái gì?

- Dạ, tôi là người, tôi không phải là hạt thóc. Nhưng...

- Nhưng sao?

- Nhưng tôi sợ bọn gà nó lại không nghĩ thế".

Nếu so sánh, rõ ràng truyện cười trên còn súc tích hơn là truyện của Phù Thăng. Với một xã hội tiêu thụ công nghiệp, cần gì cứ phải làm thơ và biết tiếng Pháp mới là điên. Thế mà 1 truyện ngắn "cười không ra cười, khóc không ra khóc" ấy lại được ông Khoa khen nức nở, khen đến nỗi tự ông cứ tưởng mình là hạt thóc.

Nhìn chung, chúng ta cần phải nghiêm túc hơn để mà chuyên nghiệp hóa nghề văn, chuyên nghiệp hóa phê bình văn học. Người ta đã chẳng nói nhiều tới việc độc giả thờ ơ với văn học hay sao. Hãy nhìn lại đi, chính chúng ta cũng có lỗi. Hãy có sự tách bạch rõ ràng trước khi chưa muộn. Đừng để đến lúc sau này trong tiềm thức của con cháu ta văn học chỉ còn là 1 khái niệm mơ hồ mà vô thực. Hệ quả đó biết đâu sẽ có lúc giải thưởng văn học sẽ được trao tặng cho 1 quảng cáo cho xe HonDa hay điện thoại di động gì đó. Hãy hành động đi, hành động cho đúng đắn trong lúc vẫn còn kịp.

H.Q.M
(123/05-99)



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.