Nhìn lại vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật

16:47 10/06/2009
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

Chẳng hạn, đánh giá lại tình hình phản ánh hiện thực của văn học ở giai đoạn trước, có ý kiến đã tìm nguyên nhân từ mục đích tuyên truyền để cắt nghĩa cho sự xuất hiện những tác phẩm minh hoạ. Nhìn lại mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị cũng có người cho văn nghệ, do chỗ hướng tới tuyên truyền vì mục đích chính trị, nên không để lại được những tác phẩm lớn có giá trị lâu dài. Ngay cả trong những bài viết, những cuộc hội thảo về chức năng của văn học, về phương pháp sáng tác.v.v... thì vấn đề này vẫn thảng hoặc được nói đến.

Xét ra, vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật đã chi phối bản thân nghệ thuật không ít. Ảnh hưởng của nó đã lan toả trên nhiều bình diện, từ quan niệm lý thuyết đến thực tiễn sáng tác, từ chủ thể sáng tạo đến khách thể tiếp nhận tác phẩm. Và xuyên suốt trong chiều dài lịch sử kể từ ý kiến của đồng chí Trường Chinh chính thức phát biểu tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai (1948) đến nay vẫn còn mở ra nhiều khuynh hướng đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau khi vận dụng quan điểm này để lý giải tình hình văn học đã qua.

Muốn có được một cách nhìn thoả đáng, ít ra trên phương diện lý thuyết, rõ ràng vấn đề tuyên truyền trong tác phẩm nghệ thuật cần được triển khai xem xét trong tương quan của sự phát triển giữa lý luận và thực tiễn sáng tác, đặc biệt phải chú ý gắn nó với yêu cầu chính trị qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Riêng ở đây, chúng tôi muốn trở lại với ý kiến ban đầu của đồng chí Trường Chinh phát biểu từ hội nghị nêu trên để đề xuất một số khía cạnh cần được khẳng định và đổi mới trong tư duy lý luận hiện nay khi đề cập đến vấn đề này trong tác phẩm văn nghệ.

Đánh giá và tổng kết các đợt tranh luận đầu những năm 40 của thế kỷ XX về các quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề tuyên truyền và nghệ thuật, đồng chí Trường Chinh đã nêu lên một kết luận có tính khái quát: "Tuyên truyền cao tới một mức nào đó thì tuyên truyền trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó thì nghệ thuật có tính chất rõ rệt là tuyên truyền" (Về văn hoá và nghệ thuật - T1 - Nxb Văn học - Hà Nội - 1985 - trang 113). Kết luận này chỉ ra mối quan hệ có tính nhân quả giữa tuyên truyền và nghệ thuật với điều kiện khi cả hai đều đạt đến độ giá trị của nó - tuyên truyền phải cao, nghệ thuật phải thiết thực. Vậy xem sự chuyển hoá này có diễn ra như một tất yếu hay không. Nói cách khác, mỗi khi tuyên truyền và nghệ thuật đã đạt được yêu cầu nêu trên thì có phải bao giờ mỗi loại như vậy cũng bao hàm trong nó phẩm chất hay đặc tính của loại kia hay không? Điều đó, chỉ có thể trên cơ sở phân tích về thực tiễn văn học đã qua may ra mới có thể khẳng định được.

Trước hết, nên hiểu tuyên truyền là khái niệm chỉ gắn liền với những vấn đề chính trị cụ thể: "nói tuyên truyền tức là nói chính trị". Quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền nếu không xem là hoàn toàn thì cũng một phần biểu hiện mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Vậy nên dễ nhận thấy, mỗi khi hoàn cảnh xã hội cho phép xem xét lại mối quan hệ này thì lập tức, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền cũng được đưa ra thẩm định, đánh giá. Thậm chí, đó còn là điểm nóng của nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi. Chứng cứ là tình hình của đời sống văn học nước ta đã diễn ra những năm 40, tiếp theo vào những năm 1957, 1958; và đặc biệt là từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Với ý nghĩa đó, quan niệm trên của đồng chí Trường Chinh đã phản ánh đúng nét nổi bật của một bộ phận văn chương vốn ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định. Chẳng hạn, thơ văn của các lãnh tụ cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh trước đây cũng như của Hồ Chí Minh và của một số đồng chí lãnh đạo Đảng ta sau này là những ví dụ tiêu biểu. Điểm giống nhau của hai cụ Phan và Hồ Chí Minh là chưa bao giờ tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ và trong tư tưởng không hề có ý lập thân bằng sự nghiệp văn chương. Với các vị, văn chương chỉ là một bộ phận nhỏ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, là một phương tiện tuyên truyền cổ động có hiệu lực trên mặt trận kháng chiến, kiến quốc. Ấy vậy, một số sáng tác của Phan Bội Châu trước cách mạng nhằm mục đích tuyên truyền vốn có sức mạnh thôi thúc cả một thế hệ độc giả lên đường tranh đấu thì "giờ đây, còn nhiều người vẫn đọc thuộc lòng và ngâm nga nhiều đoạn văn, nhiều bài thơ (...) một cách khoái trá" (Đặng Thai Mai - Thơ văn Phan Bội Châu - Nxb Văn hoá - 1960 - trang 84). Còn thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chỉ kể riêng phần truyện được Người viết để tuyên truyền cho mục đích chính trị thì rất đúng như Phạm Huy Thông nói: "Chính vì nhằm đạt kết quả thiết thực nhất cho nên rất sinh động, sôi nổi tình cảm, ước mơ, do đó lại rất văn nghệ". (Mấy lời nói đầu Truyện và Ký của Nguyễn Ái Quốc - Nxb Văn học - 1974 - trang 17). Nhà thơ Sóng Hồng - bút danh của đồng chí Trường Chinh cũng đã có lần tâm sự với bạn đọc: "Những bài thơ tôi làm cốt để phục vụ cho tuyên truyền cách mạng". Đúng vậy! Là thi sĩ cũng là bài thơ thuộc loại những tác phẩm nêu trên. Tác giả viết bài này một mặt nhằm chống lại quan điểm sai lầm của nhóm "nghệ thuật vị nghệ thuật", nhưng mặt khác còn để tuyên truyền cho một quan điểm nghệ thuật mới trong văn nghệ:

            Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
            Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền

Nhưng vẫn là bài thơ hay vì đã đạt đến một trình độ nghệ thuật nhất định. Đây là hiện tượng khá phổ biến chứ không chỉ là một vài trường hợp cá biệt. Lịch sử đã cho thấy, nhiều lãnh tụ do cuộc đời lịch lãm và từng trải trong quá trình rèn luyện để trở thành những nhà tư tưởng, nhà hoạt động cách mạng, thì đồng thời ngoài ý muốn chủ quan cũng chuẩn bị điều kiện để trở thành một nghệ sĩ lớn. Sáng tác của họ cho dù có khi chỉ hướng vào mục đích tuyên truyền, nhưng tuyên truyền đó thường đạt đến trình độ cao và "trở thành nghệ thuật". Vì vậy khuynh hướng đối lập giữa tuyên truyền và nghệ thuật tuy có dựa trên một vài căn cứ thực tế nhưng thiếu cái nhìn toàn diện và sự lý giải thoả đáng. Đúng quả có những nghệ sĩ thực sự tài năng nhưng vì lịch sử có lúc đã đặt ra trước mắt "những việc cần làm ngay" nên họ không có được khoảng thời gian ngừng nghĩ cần thiết, sự suy ngẫm, trau chuốt kỹ càng mà do đó, sáng tác có phần nặng về tuyên truyền mà nhẹ về nghệ thuật. Điều hiển nhiên mà ai cũng thừa nhận, Bác của chúng ta không những là một lãnh tụ vĩ đại mà còn là một nghệ sĩ lớn. Thế nhưng nếu ai đó gọi một số sáng tác của Bác như Ca dân cày, Ca du kích, hay Khuyên thanh niên, Gửi nông dân v.v... là những "truyền đơn bằng miệng" thì cũng không quá. Chính Bác đã có lần tâm sự: "Chắc sẽ có người cho rằng văn chương cụt quằn (...). Hơn sáu mươi năm nay đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp lên đầu hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to làm chóng để cứu lấy giống nòi. Thời gian đâu rảnh mà vẽ với trau chuốt (...) văn chương và hy vọng cuốn sách này chỉ ở trong hai chữ cách mệnh! cách mệnh! cách mệnh!!!". Sự lý giải lịch sử này cho ta thấy, trong một số trường hợp cách mạng đã biến văn chương thành một hành vi chính trị trực tiếp, nhưng nên xem đấy là một hiện tượng cá biệt. Còn nhìn chung nghệ thuật và tuyên truyền chẳng những không đối lập mà còn thống nhất và bổ sung cho nhau để hoàn thiện bản chất và chức năng xã hội của chúng.

Vả chăng, tuyên truyền cũng như nghệ thuật xét cho cùng thì đều là những chuyện của cuộc đời được đưa ra để nói, để giãi bày trao đổi. Sự gặp gỡ tuyệt diệu ở mục đích, lý tưởng thường khi đã tạo nên cho cả hai một thái độ và khuynh hướng biểu hiện chung. Vậy nên khi thấy nội dung một tác phẩm văn nghệ sát thực với nội dung chính trị thì đừng vội cho đó là tác phẩm minh họa. Lịch sử nhiều khi đã đặt ra trước mắt người nghệ sĩ vai trò của một chiến sĩ. Nhà văn chiến đấu không vì một chỉ thị nào khác ngoài chỉ thị của trái tim với ý thức tự nguyện cao cả. Họ thấy cần thiết phải phản ánh bằng được những khát vọng cháy bỏng, những yêu cầu bức thiết trước mắt của dân tộc cũng như của giai cấp để khích lệ tinh thần cộng đồng trong đấu tranh và xây dựng một cuộc sống mới. Mục đích của tuyên truyền và nghệ thuật trong trường hợp đó đã xuyên thấm, hoà tan trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn, đồng thời là điều kiện thuận lợi cho phép nhà văn vươn lên đạt được những thành tựu nghệ thuật đáng kể. Cứ bình tâm nhìn lại nền văn nghệ cách mạng nước ta trong quá khứ một cách khách quan và nghiêm túc, chúng ta sẽ thấy không ít tác phẩm văn chương đã kết tinh rực rỡ sự gặp gỡ kỳ diệu đó.

Một khía cạnh nữa cũng thể hiện mặt đúng trong quan niệm của đồng chí Trường Chinh là việc thừa nhận ý nghĩa tuyên truyền trong tác phẩm văn nghệ. Có thể, "nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó" chưa hẳn đã mang tính chất tuyên truyền; nhưng nghệ thuật có tác dụng tuyên truyền thì dứt khoát phải thiết thực. Nói rõ ra, đó phải là những tác phẩm văn nghệ thể hiện được những vấn đề cơ bản của thời đại, của dân tộc và giai cấp, phản ánh được những nguyện vọng tha thiết, những đòi hỏi bức xúc, chính đáng của quảng đại quần chúng trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hiệu quả giáo dục và tác dụng cổ vũ lớn lao của nhiều tác phẩm nghệ thuật chân chính đã biến tinh thần của quần chúng trở nên một lực lượng vật chất trong nhiều cuộc cách mạng xã hội vĩ đại. Chẳng phải từ lâu, Lênin đã từng coi tác phẩm Người mẹ của Gorki là một sáng tác rất kịp thời. Và khi nhìn về quá khứ, Người cũng gọi Pôchiê "là một trong những người tuyên truyền bằng thơ ca vĩ đại nhất" đó sao. Sau này một số người do quá nhiệt tâm đấu tranh cho "tính độc lập" của văn chương nghệ thuật mà dẫn đến khuynh hướng phủ nhận toàn bộ ý nghĩa tuyên truyền này. Họ tưởng nghệ thuật linh diệu và trường cửu phải là "nghệ thuật thuần tuý"; nhưng thực ra một quan niệm như vậy đã tước đi cái bản chất và chức năng cao quý vốn đã tạo nên giá trị muôn đời của nhiều tác phẩm vĩ đại.

Tuy nhiên trên đây cũng mới đề cập đến những khía cạnh đúng đắn trong nhận định của đồng chí Trường Chinh. Còn thật ra nhận định đó chưa thể bao quát hết toàn bộ các hiện tượng khi xem xét sự chuyển hoá hai chiều giữa tuyên truyền và nghệ thuật. Cụ thể, có loại tuyên truyền cho dù đã đạt đến trình độ cao thì vẫn không thể trở thành nghệ thuật. Loại này không biểu hiện như một chức năng của văn chương nghệ thuật mà là một hành vi chính trị thuần tuý, một hoạt động có tính độc lập. Kinh nghiệm và năng khiếu nghề nghiệp có thể giúp các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này đạt đến trình độ tuyên truyền cao, nhưng không vì thế mà hiệu quả tuyên truyền lại trở thành nghệ thuật. Nếu nghệ thuật được dùng như một khái niệm rộng, thì trong chừng mực nào đó có thể coi đã đạt đến trình độ nghệ thuật tuyên truyền chứ không phải nghệ thuật mĩ học. Đồng chí Trường Chinh nói đúng: "Tuyên truyền chính nghĩa rất có thể đạt được trình độ nghệ thuật chân chính" (Sđd trang 114). Nhưng đó là sự thống nhất trong thế khả năng. Còn một lúc vì hiệu quả tuyên truyền mà nghệ thuật có được thì không phải là hiện tượng phổ quát cho mọi trường hợp. Mặt khác, cũng có loại "nghệ thuật thiết thực" nhưng không biểu hiện gì có tính chất rõ rệt là tuyên truyền. Một tác phẩm văn chương có giá trị thường khi chỉ đem lại cho bạn đọc sự am hiểu sâu sắc về thiên nhiên, về con người của một xứ sở, một đất nước nào đó. Một bản giao hưởng tuyệt vời làm thoả mãn sự khoái cảm nghệ thuật của thính giả có khi chỉ vì sự thể hiện tài tình của nghệ sĩ bằng âm thanh về vẻ đẹp của một buổi sáng lúc bình minh đang lên. Sự mở rộng tầm nhìn, vốn hiểu biết cũng như khả năng đáp ứng những rung động thẩm mĩ cần thiết không phải khi nào cũng có tính chất tuyên truyền dù trong ý đồ của tác giả hay trong nội dung khách quan của tác phẩm. Có ý kiến cho rằng: "Tác phẩm nghệ thuật nào mà lại không tuyên truyền cho một cái gì" (Sự lãnh đạo của Đảng và tự do sáng tác của văn nghệ sĩ - Báo Nhân Dân - 20-3-1984 - trang 2). Cố nhiên! Nhưng hiểu khái niệm tuyên truyền như vậy đã theo một hàm nghĩa rộng. Nghĩa là tuyên truyền được coi như sự biểu đạt tin tức hay phổ biến, trao đổi một nội dung thông báo nào đó. Ví như một câu tục ngữ ít ra cũng mách bảo cho người đọc biết được một vài khía cạnh nhất định về kinh nghiệm sống. Một pho tượng La Hán chùa Tây Phương cũng truyền lại cho thế hệ mai sau thấu hiểu phần nào nỗi đau của ông cha ta trước đây trong kiếp trầm luân. Hay một bản nhạc, một bức tranh cho dù chỉ là kết quả của một cảm hứng thuần tuý, nhưng khi ra đời, vẫn có giá trị như một thông điệp gởi đến mọi người một cái gì về hiện thực, về tâm sự của chính nghệ sĩ v.v... Chẳng phải đã có người thừa nhận, bằng tác phẩm và thông qua tác phẩm, nghệ sĩ mượn những sự việc của thực tại để "tuyên truyền" một cái gì với thực tại đó sao. Nhưng tuyên truyền đang nói ở đây đã giới hạn trong nội dung tác phẩm gắn liền với những vấn đề thuộc chủ trương đường lối. Nó phải thể hiện được phần nào khát vọng, khuynh hướng tư tưởng của một giai cấp hay của một tập đoàn chính trị xã hội nào đó. Trong phạm vi như vậy, tuyên truyền không phải bao giờ cũng là người bạn đường của nghệ thuật. Nghĩa là, không phải tác phẩm văn chương nghệ thuật nào cũng có tính chất tuyên truyền, kể cả tác phẩm có giá trị thiết thực đối với đời sống tinh thần của chúng ta.

Hơn nửa thế kỷ qua, nền văn nghệ nước ta do bám sát với đời sống chính trị xã hội nên đã phản ánh khá chân thật và sâu sắc những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng. Đó là nền văn nghệ cách mạng thực sự có vai trò và tác dụng lớn lao trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên nhìn lại, chúng ta thấy bên cạnh một thành tựu nghệ thuật đáng tự hào vẫn còn nhiều tác phẩm đã đánh mất những phẩm chất nghệ thuật cần thiết, mà theo cách nói thường dùng, đó là những tác phẩm minh họa vốn thực hiện chức năng tuyên truyền một cách sống sượng và khô khan. Nhưng dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không nên quy lỗi cho hoàn cảnh lịch sử hay mục đích tuyên truyền mà trước hết nên xem trách nhiệm thuộc về người sáng tác. Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần, nó ra đời do kết quả của một quá trình lăn lộn, thai nghén và sinh nở bằng chính tình cảm cũng như tài năng sáng tạo của nhà văn. Dù sao thì nguyên tắc của nghệ thuật, nhất là nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực cũng không cho phép nhà văn dễ dãi lược quy tất cả đặc trưng của nó để phục vụ cho mục đích tuyên truyền hay khuynh hướng tư tưởng nào đó. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen, cách đây hơn một thế kỷ trước, mặc dù rất nhiệt tâm cổ vũ và đánh giá cao những tác phẩm tuyên truyền cho khuynh hướng chính trị của giai cấp vô sản nhưng vẫn luôn luôn đòi hỏi một yêu cầu nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nhà văn hiện thực. Ph.Ăngghen từng nhấn mạnh: "bản thân khuynh hướng phát toát ra từ tình thế và hành động", và theo Người: "Các quan điểm của tác giả càng kín đáo bao nhiêu thì lại càng tốt cho tác phẩm nghệ thuật bấy nhiêu" (Về văn học và nghệ thuật - Nxb Sự thật - Hà Nội - 1997 - trang 381,385). Vậy nên, ý nghĩa tuyên truyền cho dù được coi trọng đến mấy cũng không vì thế mà xem nhẹ đặc trưng phản ánh của nghệ thuật. Nghệ thuật dứt khoát phải có tiếng nói riêng, tiếng nói toát lên từ những biến cố và hệ thống hình tượng sinh động đầy sức thuyết phục. Nếu không thấy được điều này sẽ dễ dàng đồng nhất nghệ thuật với tuyên truyền, biến nghệ thuật thành một công cụ thực dụng và coi sáng tạo nghệ thuật như một hành vi chính trị thuần tuý.

T.T.H
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.