Mùa xuân, tôi về phố Huế tìm hoa mai, tìm một chút hương hoa ngày cũ, để nhớ về những ngày tháng chưa xa. Cánh đồng hoa mai trước Phu Văn Lâu bạt ngàn một sắc vàng âu yếm. Những cội mai già đứng, ngồi im lặng như những con người từng trải, đã qua gió bụi phong trần, đã đi hết cõi đời trần ai này mà chưa một lần quay lưng lại. Một cành mai đơn lẻ mang vẻ đẹp khác với một rừng mai. Đời mình, tôi chưa từng thấy rừng mai nào đẹp như rừng mai trước Phu Văn Lâu. Có chăng là trong tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh về một vườn mai lớn bên sông Hồng đỏ bậm phù sa. Trong cái buổi sáng của một ngày đầu xuân ấy, tôi đi như mê muội trong lòng cánh đồng mai. Dưới màu nắng xuân lụa là, những đóa mai vàng run run nở, từng chiếc cánh mỏng tanh như cánh chuồn chuồn kim vàng hực lên dưới nắng. Gió nhẹ thổi ơ hờ qua những cánh hoa, để lại một mùi hương thoang thoảng trên những lối đi mọc lưa thưa một loài cỏ dại không tên. Không gian trước Phu Văn Lâu tràn ngập sắc vàng và hương hoa. Hoa đẹp vậy làm sao mà cuồng sĩ Cao Bá Quát không yêu đến mụ mẫm, không khấu đầu bái lạy trước vẻ đẹp kỳ lạ của tạo hóa. Ít nhất cho đến khi công bố toàn bộ trước tác của Cao Bá Quát, nhiều người đã thuộc nằm lòng ba bài thơ mà ông đã viết về hoa mai, khen hoa mai đẹp vẻ đẹp của người quân tử, cái đẹp gắn liền với đạo đức Nho giáo. Gắn bó với đời sống của người lao động nghèo khổ, Cao Bá Quát không quên đến người trồng mai (tài mai), những lê khổ của hoa mai cũng là những lê khổ của đời người phải trải qua. Nếu với hoa mai là nắng quái, mưa chiều, là lửa sôi, rét lạnh căm căm, thì với đời người là phong trần dâu bể, là những thăng trầm trên con đường đời khổ nhọc, hiểm nguy. “Đê thủ” trước hoàng mai hoa, là Cao Bá Quát đã bái lạy trước cái chuẩn đạo đức của muôn đời, lấy nhân, lễ, nghĩa, trí, tín làm mực thước của hành vi con người. Vì vậy mà khi kết thúc cuộc đời kẻ sĩ một cách bi tráng, Cao Bá Quát đã đi vào cõi bất tử, và ông là một đóa hoa mai can trường, đẹp một vẻ đẹp lóng lánh. Trong cánh đồng hoa tinh anh của dân tộc, ông đứng bên cây trúc Nguyễn Trãi, cây trà mi Nguyễn Du, cây thông Nguyễn Công Trứ... cho cuộc đời này một quân tử hoa. (nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)
|
VIỆT HÙNG
“Trên đỉnh Trường Sơn, ta gặp nhau giữa đường đi chiến đấu, anh giải phóng quân Lào biên giới đẹp sao...”*- Câu hát từ thời chống Mỹ, đã trở nên xa xăm, song giờ đây, thỉnh thoảng nó vẫn vang lên trên các sóng phát thanh...
ÐÔNG HÀ
Tôi là người sinh ra sau chiến tranh, lớn lên bằng những bài học lịch sử. Thế hệ chúng tôi yêu Tổ quốc theo những bài học ông cha để lại qua những trang sách cộng thêm chút tính cách riêng của chính bản thân mỗi người. Mỗi người chọn cho mình một cách thể hiện tình yêu đó khác nhau.
CHẾ LAN VIÊN
Hồi ký về Đoàn Nghệ thuật Xây dựng (Huế 1946)
NGUYỄN QUANG HÀ
(Bút ký)
Ông Lê nguyên giám đốc sở Văn hoá Bình Trị Thiên, một lần về Thủy Dương lấy tài liệu viết tuyên truyền cho vụ lúa mùa, đã cụng đầu với ông bí thư xã.
TẠ QUANG BỬU
(Hồi ký)
Tôi đã học ở trường Quốc Học bốn năm từ năm 1922 đến 1926, cách đây đúng 60 năm.
TRỊNH BỬU HOÀI
Đất trời đang mặc chiếc áo mới cho trần gian. Con người cũng thay chiếc áo mới cho mình. Chiếc áo khoác trên đôi vai sau một năm oằn gánh công việc. Chiếc áo phủ lên tâm hồn ít nhiều khói bụi thế nhân.
NHỤY NGUYÊN
Một câu trong Kinh Cựu ước: Khởi thủy là lời. Tôi không dám khoác thêm bộ cánh mới, mà chỉ muốn tìm cho nó một mỹ từ gần gũi: Khởi thủy là mùa Xuân.
ĐÔNG HƯƠNG
Trí nhớ tôi tự dưng quay trở về với tuổi thơ, tuổi ba mẹ vừa cho đi học. Ờ! Lâu quá rồi, cái Tết đối với tôi không còn ý nghĩa gì nữa, trí nhớ lơ mơ trở lại khoảng đời thơ ấu, có lẽ đẹp nhất trong đời của mỗi con người của chúng ta.
TRẦN HỮU LỤC (Tùy bút)
Tháng Chạp ở quê tôi là tháng của hoa mai. Dường như màu của hoàng mai tươi thắm khắp mọi nẻo đường. Những chậu mai kiểng, vườn mai chùa, vườn mai nhà, đường phố mai, công viên mai, những thung lũng mai núi… đến thì lại nở đẹp một màu vàng mỏng nhẹ trong sương sớm.
DƯƠNG PHƯỚC THU (Bút ký lịch sử)
Nhiều năm men theo dấu chân của nàng Huyền Trân, công chúa nhà Trần mở đất Ô, Lý, hễ có dịp là tôi lại hành hương đất Bắc. Viếng đền thờ các vua nhà Trần ở làng Tức Mặc - nơi ấy nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định.
HÀ THÚC HOAN
Những ai đã từng là học sinh trường Quốc Học - Huế đều có Một thời Quốc Học(1). Thời Quốc Học của tác giả bài viết này là ba năm học tập ở các lớp đệ tam (lớp 10), đệ nhị (lớp 11) và đệ nhất (lớp 12), từ năm 1956 đến năm 1959.
TRẦN HUY MINH PHƯƠNG (Tùy bút)
Thoáng một cái, xài hết ba trăm sáu mươi lăm ngày mà hổng biết. Bao dự tính giằng co rồi dang dở, chưa kịp nghĩ thấu, chưa xiết làm xong, phân vân nhiều nốt lặng, yêu người chưa sâu nặng, nợ người chưa trả xong… ngày giũ vội qua đi. Ngẩn ngơ, mùa về!
THIẾU HOA Hắn! Một vị khách không mời mà đến. Hắn đến viếng nhà tôi trong một đêm mưa to gió lớn. Cả nhà ai cũng biết sự có mặt của Hắn. Đêm đầu tiên cứ nghĩ Hắn chỉ trốn mưa tạm thời rồi hôm sau sẽ đi. Nhưng đến nay đã qua một mùa xuân, Hắn vẫn còn ung dung tự tại ở trong nhà, lại ở đúng trong phòng của tôi như một thành viên chính thức trong gia đình.
PHAN QUANG Trích hồi ký ... Đến thị xã Sơn La chiều hôm trước, sáng hôm sau trong khi chờ đến giờ sang làm việc với Khu ủy Tây Bắc, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - mà các đồng chí gần gũi đều quen gọi bằng tên thân mật: anh Thao - cho mời chủ nhiệm nhà khách của khu tới.
VÂN NGUYỄN Tùy bút “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...” (Trịnh Công Sơn)
PHAN THỊ THU QUỲ Ba tôi - liệt sĩ Phan Tấn Huyên, Nguyên Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Thừa Thiên - thường dặn tôi mấy điều: dù khó khăn đến mấy cũng không được ngừng nghỉ phấn đấu học hành bởi tri thức là sức mạnh; dù như thế nào đi nữa cũng phải giữ cho được bản sắc văn hóa Huế rất đỗi tự hào của mình...
TẤN HOÀI Một khung trời mây Một dải gương lung linh cuộn quanh hoàng thành cổ kính. Trầm mặc và ưu tư. Tưởng chừng như thế!...
XUÂN HOÀNG Tôi được Hội Nhà văn Việt Nam cử đi thăm hai nước Ru-ma-ni và Bun-ga-ri đúng vào những ngày đầu xuân Mậu Thân, sôi động.
HỮU THU & BẢO HÂN Ký Đến bây giờ nhiều người vẫn chưa quên hình ảnh hãi hùng mà cơn bão mang tên Cecil tàn phá vào cuối tháng 10 của năm 1985 ở miệt phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên-Huế.
PHẠM THỊ CÚC Thầy dạy lớp Nhì Thầy dạy lớp Nhì tên Thanh. Người thầy roi roi, hơi thấp và nhỏ con. Bù lại, thầy rất nhanh nhẹn và vui vẻ, hoạt bát, nụ cười luôn nở trên môi.