Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cha tôi: nhà văn Trần Thanh Mại

16:49 22/01/2009
TRẦN THỊ LINH CHIXuất thân gia đình quan lại, học giỏi nhưng lại không chịu theo đuổi đến nơi đến chốn để khoa bảng đề tên, tiến bước công danh hầu nối nghiệp nhà, cha tôi bỏ dở chương trình tú tài sau khi đậu thành chung, làm một công chức kiếm sống qua ngày, dành hết cuộc đời cho văn học. Năng khiếu phê bình của ông đã biểu hiện ngay từ thời còn đi học.

Một hôm, cha tôi và bạn là nhà thơ Nam Trân, leo lên ống máng tầng hai của trường Quốc Học để nhặt một quả bóng, bị giám thị phạt cấm túc ngày chủ nhật và phải chép 300 câu thơ của Racine, đại ý “Kẻ nào cười hôm thứ sáu thì đến chủ nhật sẽ khóc”. Cha tôi nhận lỗi, chịu phạt nhưng không chịu chép, viện cớ câu thơ trên không thể áp dụng vào trường hợp của ông và bạn, vì “Chúng tôi quả có trèo lên ống máng hôm thứ ba chứ chưa bao giờ cười hôm thứ sáu”. Vị giáo sư người Âu, nghe giám thị kể lại, rất lấy làm đắc ý với cái khoa tâm lý học của mình, nên nói: “Tôi đã bảo mà! Chúng nó quả là thông minh và ranh mãnh! Tha đi thôi!”.
Bài luận “Tả một cơn mưa dông” của ông, một học sinh giỏi nhất lớp, một bài văn sinh động, được nhiều bạn học biết đến, đã bộc lộ cái tài quan sát và phê bình của tác giả: “… Những ông thầy bói ế khách đang thiu thiu ngủ, bỗng dưng vùng dậy. Các nhà tiên tri mà không tiên tri ấy quờ quạng tìm cái tráp đang lăn kềnh tận góc lều xa…”. Có thể nói đó là tác phẩm đầu tiên của cha tôi.

Mới 25 tuổi, ngòi bút phê bình văn học của ông đã gây được tiếng vang trên văn đàn. Trong tiểu luận: “Tìm sự thật trước khi viết bộ “Việt Nam văn học sử” (1933)”, cha tôi bác bỏ những thuyết lưu truyền xưa nay về cái tài ứng khẩu của mấy ông trạng như Mạc Đĩnh Chi, Trạng Quỳnh… và nêu ra sự vô lý, bịa đặt, không thể có được của những câu chuyện đó. Bài tiểu luận đó đã tạo ra bút chiến đầu tiên trong cuộc đời phụng sự văn học của ông, với ông Trần Trung Viên tác giả “Văn đàn bảo giám”. Cụ Huỳnh Thúc Kháng và nhà văn Phan Khôi cùng tham dự vào cuộc bút chiến đó, đã khen ngợi và bênh vực cha tôi.

Thời trẻ, trong lý luận văn học, cha tôi thường táo bạo, đôi chút cực đoan và hay khích chiến. Cuốn Hàn Mạc Tử “đã tạo ra vụ kiện đầu tiên trong lịch sử văn học Việt ”. Nhà thơ Quách Tấn, trên danh nghĩa thay mặt gia đình Hàn, kiện nhà văn Trần Thanh Mại vì sử dụng trong tác phẩm nhiều thơ Hàn Mạc Tử chưa in. Nhà văn Nguyễn Tiến Lãng, Phủ Thừa của Thừa Thiên Huế, ngồi ghế thẩm phán để xét xử, đã viết trong bài “Sách Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại”:
- “… Ông Trần Thanh Mại làm quyển sách này dễ thường cũng vì một túc trái tiền duyên chi đó…
 … Thiết tưởng ông Quách Tấn cũng không đáng chê như vậy!”
Vụ kiện thúc đẩy độc giả tìm đọc tác phẩm Hàn Mạc Tử nổi tiếng và tác giả cũng nổi tiếng luôn, tuy trước đó ông cũng đã được nhiều người biết đến qua các tác phẩm: Trông giòng sông Vị, Đời Văn, Tuy Lý Vương… Thời gian chứng minh tác phẩm Hàn Mạc Tử của cha tôi là cần thiết và hữu ích cho sự nghiệp của nhà thơ.

Ông Nguyễn Bá Tín trong “Hàn Mạc Tử anh tôi” tuy có phàn nàn về những nhận xét thiếu khách quan của tác giả về gia đình, nhưng ông xác nhận:
- “… Tôi thầm cảm ơn ông Mại đã phổ biến được nhiều bài thơ của Hàn Mạc Tử cho người đời thưởng thức tài năng anh, có ông Mại tài năng anh mới được người đời biết đến. Cuốn Hàn Mạc Tử không ra đời, e không ai biết đến thơ anh Trí rộng rãi như vậy. Nếu có đọc được bài nào của anh, mà biết chắc là của anh đi nữa thì, nếu không bị bóp méo vo tròn thì cũng có tên tuổi nào đó ký dưới bài thơ.”

Lý luận táo bạo của cha tôi đưa đến sự phàn nàn của gia đình Hàn Mạc Tử, nhưng đồng thời cũng tiên đoán chính xác sự nghiệp của thi sĩ tài hoa này:
- “. .. Trong một ngày không lâu, người ta sẽ giành nhau cái vinh dự xây dựng cho Hàn Mạc Tử những chiếc thánh giá vĩ đại, đến cả những lăng tẩm nguy nga nữa.”
Ông viết những lời đó, ngay sau khi nhà thơ tạ thế chưa đầy một năm, lúc đó chưa mấy ai biết đến thơ của Hàn. Ông viết những lời đó sau khi đi đến tận nơi, tự mắt mình chứng kiến những sự việc đau lòng. Mộ Hàn Mạc Tử, nấm mộ “U lên như một vồng khoai” mà chỉ mười tháng sau khi mất, chiếc thập tự bằng hai que củi đóng một cái đinh ở giữa đã sụp đổ, và chính cha tôi là người sửa lại cho ngay ngắn. Ngôi mộ hoang tàn, không người thăm viếng, đúng như lời thơ của Hàn lúc sinh tiền từng cảm nhận:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc,
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm
.

Thơ của Hàn Mạc Tử, tập “Thơ đời” với bút tích của nhà thơ, đã bị xé rách hơn một nửa để gói tỏi, tiêu… và làm giấy đi vệ sinh. Chứng kiến thực tế phũ phàng đó, cha tôi vẫn đoan quyết về sự nghiệp xán lạn của Hàn Mạc Tử, “Ông dám khẳng định được điều mà người đương thời không dám khẳng định” (Hồng Diệu trong Độc đáo Trần Thanh Mại).
Dưới suối vàng hẳn cha tôi cũng hài lòng khi biết hiện nay, tuy chưa là lăng tẩm nguy nga, nhưng mộ của Hàn Mạc Tử đã là khu an nghỉ xứng đáng với tài danh của nhà thơ, khu du lịch mời mọc người ái mộ bốn phương.

*
Khi trưởng thành, cha tôi đã làm hai việc trái với truyền thống của gia đình:
- Bỏ học, chê con đường công danh mà theo nghề viết văn.
- Chối từ nơi môn đăng hộ đối, một tiểu thư con cụ Thượng Thư do gia đình chọn lựa, mà “nổi loạn” lập gia đình với mẹ tôi, một “con hát”, một nghệ sĩ cung đình, con nhà dân dã và nghèo rớt mồng tơi. Có phải cha tôi muốn thực hiện quan niệm sống mới cho bản thân, hay vì say mê nghệ thuật hát bội. Theo tôi thì có lẽ cả hai.
Cha tôi thương mẹ tôi vì tài năng của bà, nhưng cũng do cám cảnh người con gái, vì chữ hiếu, mới 8 tuổi, đã phải gia nhập ban hát của phủ bà chúa Nhứt, chị vua Thành Thái, để có tiền phụng dưỡng cha già bệnh nặng đang nằm liệt giường. Làm “con hát” của Ngài Chúa Nhứt không là dễ dàng, mà phải trải qua một cuộc trắc nghiệm về thanh sắc: điệu bộ mềm mại, uyển chuyển, hát đúng giọng và không được đứt quãng câu hát:
- “. ..Một con cà cưỡng, hai con cà cưỡng… (cho đến) mười con cà cưỡng”

Mà thật lạ lùng, một chàng trai tuấn tú, một nhà văn, có biết bao người đẹp khuê các, nữ sinh Đồng Khánh và Jeanne d’Are ái mộ và bao quanh, lại đem lòng thương một cô đào hát bội, học lực không bao nhiêu, sắc đẹp lại chẳng khuynh nước, khuynh thành, một cô đào võ thành danh với các vai Tạ Ngọc Lân lăn lửa, Tiết Cương chống búa, xuất hiện trên sân khấu với bộ mặt đen sì hay rằn ri, họa hoằn lắm mới có bộ mặt “coi được” qua các vai Triệu Tử Long phò ấu chúa hay Khương Linh Tá qua đèo.
Theo tôi nghĩ, cha tôi không thích chọn gái mỹ miều như vua Thành Thái:
Kim Luông có gái mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.

Ông e ngại những tiểu thư trâm anh đầy “khuôn phép”, mà chọn mẹ tôi một người không “nề nếp”, nhưng chơn chất, thật thà, ông thương bà với tâm hồn một nghệ sĩ: rung cảm và đồng điệu với tài năng của một nghệ sĩ khác: Cái tài năng lôi cuốn ông đến với bà, cái tài năng được xác nhận qua sự ân thưởng Kim Khánh và Ngân Khánh bội tinh của vua Khải Định. Nói như từ thường dùng bây giờ, cha tôi phản ứng lại nếp sống đầy tư tưởng phong kiến hủ lậu của kinh đô Huế thời đó, bằng cách chọn cho mình một cuộc sống hơi “bụi” một chút. Có vậy, ông mới được sống không gò bó, có đôi chút phóng khoáng, thích hợp cho nghề cầm bút của ông.

Khi hứng thú, cha tôi còn được mẹ tôi chiều chồng, diễn lớp Tiết Cương, thương tích đầy mình, bị Võ Tam Tư đuổi và Loan Anh tiếp cứu. Khi bà quay trong chiếc búa, quay lại hỏi:
- Hà xứ nhân lai cứu ngã!
Thì cha tôi nhập vai Loan Anh, sau mấy lời tự giới thiệu, nhìn mẹ tôi (vai Tiết Cương) với ánh mắt vỗ về, khích lệ:
- Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay!
Ông thích câu đó có phải vì cho mình cũng gian nan, tuy không là cái gian nan của đấng anh hùng, nhưng là cái gian nan của một kẻ sĩ trong hoàn cảnh bi ai của đất nước.

Cha tôi muốn mẹ tôi, “cô gái lọ lem” thiếu cái tuổi thơ hạnh phúc và bình an, có được một cuộc sống phong lưu và nhàn nhã. Ông không cho bà làm bất cứ chuyện gì, ngay cả mua bán, theo quan niệm “khinh thương” của xã hội phong kiến thời đó. Ông chiều bà đến nỗi thường mang áo quần đến tận nơi cho mẹ tôi thay, khi bà chơi bài cùng bạn bè.
Cha tôi giao tiếp rộng rãi, cả với các bà nữa, nên mẹ tôi hay ghen, nhưng rồi cũng dễ dàng thông cảm, thân thiết khi họ biết cách tôn trọng bà. Bà khó chịu khi thấy bà bác sĩ Aslet thường thân mật chuyện trò bằng tiếng Pháp với cha tôi. Khó chịu vì không biết họ nói chuyện gì, nhưng khi bà Aslet dùng từ “Madame” để lịch sự gọi bà thì mẹ tôi cảm động và tình bạn nẩy nở giữa hai người. Truyện Madame Trần của tôi là dựa trên sự thật.

Mẹ tôi tin vào những gì cha tôi nói và một mực tôn trọng trung, hiếu, tiết, nghĩa trong quan niệm đạo đức phong kiến qua những tuồng cổ mà bà đóng. Bà không mua bán để kiếm tiền, phụ vào đồng lương của chồng, vì sợ mất thể diện của chồng, là một sai lầm dẫn đến hậu quả cho gia đình khi cha tôi ra đi. Nhưng trái lại, mẹ tôi tuy còn trẻ, mới 35 tuổi đã thủ tiết thờ chồng. Bà cực nhọc chăm sóc bà nội tôi người mẹ chồng từng quá khắt khe với “người dâu không mời mà đến” cho đến ngày bà tôi mất.

*
Sau Cách mạng Tháng Tám, khi bé Linh Chi tò mò hỏi về cụ Hồ, thì cha tôi nói: “Cụ Hồ là Nguyễn Ái Quốc, người dày công bôn ba tìm đường cứu nước, người mà cụ Huỳnh Thúc Kháng ngưỡng mộ, vua Bảo Đại nghe danh vui lòng thoái vị, huống hồ cha”. Những dẫn chứng đó vô cùng thuyết phục: hình ảnh cụ Hồ trong tôi không hề thay đổi tuy sống ở miền .
Năm 1946, cha tôi tham gia đoàn văn nghệ sĩ dự Đại hội Văn hóa Toàn quốc tại thủ đô Hà Nội, nhưng rồi vì thuộc thành phần gia đình quan lại, anh ruột Trần Thành Đạt là thượng thư bộ Học, trước 1945 lại tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng, nên bị bắt giữ vì tình nghi hoạt động chống đối. Được cụ Huỳnh Thúc Kháng bảo lãnh, chính quyền cách mạng cho tự do, cùng mọi thành phần yêu nước khác, cha tôi rời bỏ gia đình tham gia kháng chiến.

Trước ngày mặt trận Huế tan vỡ, mới 10 tuổi, tôi đi tàu “cọp” ra Thanh Hóa tìm cha, vẫn thấy ông còn làm việc cho Ngân khố và không hề thấy cha tôi cặm cụi viết trên bàn giấy như thường lệ. Khoảng 5-6 năm sau, bà nội tôi lén lút ra thăm, khi về chỉ than: “Cha con hơi gầy và xanh”.
Vắng chồng, người vợ mà cha tôi chiều chuộng quá mức, không cho làm gì hết, đã phải lao đao xoay xở để thích nghi với trách nhiệm và cuộc sống mới. Sau một thời gian ngắn, nhờ sự giúp đỡ của gia đình bác tôi cùng bạn bè cũ còn khá giả, mẹ tôi bôn ba mua bán hàng xách, chị em tôi học hành khá nên có học bổng, cuộc sống từ đó cũng đắp đổi qua ngày.

Không biết có “Chút mực nào trên đầu ngón tay” như cha, nhưng thời đi học tôi cũng khá về thơ, văn, diễn kịch: “Thái tử Tất Đạt Đa”, “Mùa Gặt Ác” của Võ Đình Cường, “Bến nước Ngũ Bồ” của Hoàng Công Khanh... nhưng tôi lại thờ ơ với văn chương, chỉ dành tâm trí cho mục đích thoát nghèo. Mãi đến hơn 60 tuổi, tự thẹn và xấu hổ với vong hồn cha, tôi mới lại cầm bút.
Năm 1965, tin từ Pháp về cho biết cha tôi đã mất.
Trong 10 năm trời, từ đó cho đến ngày giải phóng, hàng năm đến ngày giỗ, nhìn chân dung con người hào hoa, phong nhã, đầu đội mũ phớt ra vẻ con nhà, lòng tôi thổn thức với câu hỏi trong đầu: Suốt thời gian xa cách gia đình, cuộc sống tinh thần của cha như thế nào? Cha còn viết văn không?
Tôi luôn luôn bị ám ảnh về những ngày tháng cuối đời của cha.

*
Sau ngày giải phóng, mọi thắc mắc về cha tôi - nhà văn Trần Thanh Mại đều được giải đáp.
Ông đã cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp nghiên cứu và phê bình văn học:
- Được nhà nước đặt hàng cho Trần Thanh Mại toàn tập (3 cuốn: 2490 trang).
- Được ân thưởng Huân chương Kháng chiến.
- Tên ông được đặt cho hai con đường: một ở Huế và một ở TP. HCM.
Ông phải kiên trì và tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương đoàn kết dân tộc và trọng dụng nhân tài “Bất chấp quá khứ” do Hồ Chủ tịch đề xướng và phấn đấu chống chọi với bệnh tật. Ông xác định lòng tin vào đường lối của Hồ Chủ tịch trong “Học tập một số thơ văn Hồ Chủ tịch” viết trong Tạp chí Văn học năm 1960. “… Hồ Chủ tịch luôn luôn chủ trương lấy sự chân thành mà đãi người, dùng sự chân thành để cảm hóa lòng người”.

Tuy nhiên, trong thực tế của cuộc sống, suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cha tôi đã phải chịu đựng sự đối xử lạnh nhạt như ông đã giãi bày trong tiểu luận “Thanh niên học tập sáng tác”, Nhà xuất bản Thanh niên, 1960:
“… Những người nhìn các văn nghệ sĩ “cũ”, các trí thức “cũ” bằng con mắt khinh thường, cho đó là hạng người lỗi thời, không phục vụ được nữa, mà phải đối xử tử tế với họ chỉ vì “chủ trương liên hiệp” rộng rãi mà thôi…”.

Trong tác phẩm “Nguyễn Sơn - Lưỡng Quốc Tướng Quân”, khi kể lại chuyện xưa, các tác giả nhắc đến những nghệ sĩ bao quanh vị tướng quân chiêu hiền đãi sĩ, nêu lên rất nhiều tên tuổi như Đặng Thai Mai, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên… đến cả người em ruột của ông là Trần Thanh Địch, mà không hề nhắc đến tên Trần Thanh Mại, tuy ông cũng ở Thanh Hóa.
Có phải trong tâm trạng không vui đó mà cha tôi đã gửi về cho gia đình bức ảnh nét mặt đăm chiêu với lời đề tặng: “Thân mến tặng các con, ảnh của ba đang khóc mà đề tặng mấy chữ này cho các con” (Thọ Xuân 5 - 1 - 1952). Khi chưa được các ban, ngành văn hóa để mắt tới, ông lại dùng viên phấn để dạy học, viên phấn mà trước 1945 ông thường, vì ưa sạch, thường dùng khăn tay để bọc. Cha tôi sáng tác kịch “Anh Hùng Lam Sơn” để thầy trò cùng công diễn.

Chỉ sau ngày tiếp quản thủ đô Hà Nội, cha tôi mới được chuyển về phụ trách phòng Tuyên truyền và Báo chí của Bộ Giáo dục, một công tác gần gũi với sở trường, và từ đó, ông bắt đầu cầm bút lại, trong hai năm, lần lượt xuất bản 5 tác phẩm.
- Chú hươu vàng và anh nông dân (1955).
- Quan điểm duy vật máy móc và duy vật biện chứng trong cách nhận định một truyện cổ tích (1955).
- Tìm hiểu và phân tích truyện cổ tích Việt (1956 - 1957).
- Thanh niên học tập sáng tác (1957).
- Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương (1957).
Sức sống sáng tác của ông đã tái sinh.

Sự kiện năm 1960, nhà văn Trần Thanh Mại về làm công tác nghiên cứu tại Viện Văn học Việt Nam mới thành lập: Tổ trưởng tổ văn học cổ đại, cận đại và dân gian, đồng thời ở trong ban biên tập tập san “Nghiên cứu văn học” tiền thân của “Tạp chí Văn học” hiện nay, là phần thưởng mà từ lâu ông mong muốn: trở về phục vụ ngành nghề của mình.
Xa rời cây bút hơn mười năm, vì sự nghi ngại của giới hữu trách, và cũng có thể do yêu cầu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp chưa cần đến những nhà nghiên cứu và phê bình văn học, khi cầm bút lại, cha tôi cảm nhận được thời gian ngắn ngủi còn lại qua bệnh tật, và với tuổi đời đã chín chắn, ông không còn bồng bột như trước 1945: “-Không hiểu sao bọn ông Trần Trung Viên lại... chưa chết?”. Hay tự ái với nhà thơ Quách Tấn: - “Tiên sinh không biết rằng những mũi tên là đà như thế làm chi thấu được cánh chim phụng, chim bằng”.

Ông dành tâm trí, phấn đấu cùng bạn đồng viện hoàn thành nhiều công trình và bài viết giá trị về Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu…
Ông trở lại vấn đề Tú Xương với hai tác phẩm:
- Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương (1956 - 1957).
- Tú Xương: Con người và nhà thơ (1961 với Trần Tuấn Lộ).
Nhận chân giá trị của toàn bộ áng thơ tố cáo, phê bình sâu sắc của ông hoàng Miên Thẩm, bất chấp quan niệm đánh giá thấp các sự nghiệp văn hóa của Triều Nguyễn thời đó, ông mạnh dạn soi sáng tác giả này qua tiểu luận “Nhân tố hiện thực trong thơ Miên Thẩm” (1965, thời gian trước khi mất) và còn căn dặn, như là lời trối trăn, các bạn trẻ của Viện tiếp tục nghiên cứu hay ủng hộ những ai quan tâm tới.

Dù bệnh đang hoành hành, cha tôi vẫn theo đoàn đi viếng thăm Côn Sơn, quê hương Nguyễn Trãi, để chứng kiến cái cảnh u tịch, vắng vẻ mà đoan quyết bài thơ nôm Tích cảnh trong “Quốc Âm thi tập” là bài thơ nhớ vợ, nhớ Nguyễn Thị Lộ.
Cảm động nhất là “mối tình văn chương” giữa cha tôi và một học sinh lớp chín mà ông chưa hề gặp và biết mặt. Qua 14 bức thư, trong đó ông lộc lộ tình cảm, tâm sự, đời sống cũng như quan điểm văn chương, cùng những lời khuyên chân thành, căn cứ trên kinh nghiệm sống, về dự định tương lai của người bạn văn tuy lúc đó anh ta chỉ mới 17 tuổi và chưa hề viết một dòng văn nào.
Người bạn vong niên đó, nay trở thành một quân nhân, một nhà văn, nhà phê bình quen thuộc, người tận tình, tận lực với cái tâm tri kỷ, soi sáng sự nghiệp văn học của cha tôi qua tác phẩm do anh chủ biên: “Trần Thanh Mại toàn tập”. Người đó là đại tá Đỗ Văn Thuận, nhà nghiên cứu, phê bình Hồng Diệu, người mà tôi có chút “ganh tỵ”, vì hình như anh mới là người con tinh thần của cha tôi.


Nhiều năm đã trôi qua, hôm nay đầu xuân, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cha tôi - nhà văn Trần Thanh Mại, giữa hương trầm tỏa ngát, tôi lại tưởng niệm về người.
Tôi cảm nhận được cả đau khổ và hạnh phúc của cha, người đã phấn đấu cả cuộc đời một cách kiên trì và với nỗ lực không mệt mỏi để được phục vụ cho nền văn học của đất nước.
T.T.L.C

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.