Nhan đề gốc của “Truyện Kiều”

15:13 29/12/2014

ĐINH VĂN TUẤN

Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.

Kim Vân Kiều, Á Châu xuất bản năm 1957, 122tr - Ảnh: sachxua.net

Người thì cho là Kim Vân Kiều tân truyện hay Kim Vân Kiều truyện, người khác lại cho là Đoạn trường tân thanh, chưa kể các tên gọi khác như Kim Túy tình từ… sau khi cụ Ngô Đức Kế(1) bài bác tên gọi “Kim Vân Kiều”, Trần Trọng Kim đã gọi khác đi là Truyện Thúy Kiều, Hồ Đắc Hàm gọi là Kiều truyện dẫn giải, Phúc An gọi là Kim Kiều tình tự, Tản Đà gọi là Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện… rồi sau này tên gọi đơn giản “Truyện Kiều”(2) như Phạm Quỳnh với câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn” bắt đầu được dùng phổ biến đến nay. Tình trạng này cho thấy nhan đề tác phẩm nổi tiếng của cụ Nguyễn Du đã bị người đời quên lãng và chứng tỏ sự đình trệ của giới nghiên cứu khi không đưa ra được một luận chứng thuyết phục về tên gọi ban đầu của Truyện Kiều. Có thể nói không quá đáng rằng đây là một sự “bất kính” với cổ nhân. Trong tình hình hiện nay, khi mà Thi hào Nguyễn Du, nhà văn hóa, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng của Việt Nam đã được chọn là nhân vật văn hóa do thế giới vinh danh(3) và cả nước đang hướng tới Kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại Thi hào Nguyễn Du (1765 - 2015) cũng như đề nghị của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch khi phê duyệt Dự án “Phục nguyên văn bản Truyện Kiều được đồng thuận cao” của Hội Kiều học Việt Nam(4) thì việc phục hồi lại nhan đề gốc của Thi hào Nguyễn Du càng nên được chú trọng và tìm hiều lại một cách khoa học.

"Kiều Truyện dẫn giải" của Hồ Đắc Hàm. Đắc Lập 1929 - Ảnh: sachxua.net


Theo tục truyền, sau khi Nguyễn Du viết xong bản thảo Truyện Kiều, cụ đã đưa cho thân hữu là Phạm Quý Thích (1760 - 1825) đọc và sau khi cụ Phạm đọc xong đã khen ngợi rồi xúc cảm viết bài thơ đề tựa (thường ghi là Đề từ, Thi vân ở các bản Nôm) và đem khắc in lần đầu tiên. Thật ra bài thơ này không phải là bài đề tựa Truyện Kiều mà chỉ là bài thơ cảm tác mang tên Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm(5) của Phạm Quý Thích do đó không phải là bài thơ đề tựa cho bản khắc in từ cụ Phạm Quý Thích. Trước hay sau khi cụ Nguyễn Du qua đời, không hề có một bản khắc in Phạm Quý Thích nào cả, điều này cũng được nhà Kiều học Đào Thái Tôn chứng minh và khẳng định(6). Nhưng chính từ bài thơ này, người đời sau dựa vào mấy chữ đoạn trường tân thanh rồi tin rằng đây chính là nhan đề gốc do Nguyễn Du đặt, chẳng hạn như học giả Đào Duy Anh đã từng tin như vậy: “Sách mà ta thường gọi là Truyện Kiều hay là Truyện Thúy Kiều, Nguyễn Du đặt nguyên đề là Đoạn trường tân thanh. Lập Trai Phạm Quý Thích là bạn thân của Nguyễn Du, khi đem khắc bản để in mới nhân nguyên truyện của người Trung Quốc tên là Kim Vân Kiều truyện mà đổi tên là Kim Vân Kiều truyện”(7), hay học giả Hoàng Xuân Hãn cũng đã từng nói: “Có nhẽ cụ Nguyễn Du đặt tên truyện là Đoạn Trường Tân Thanh thực đấy, chứ không phải là Kim Vân Kiều đâu. Kim Vân Kiều là tên của sách Tầu. Rồi sau những người khắc khác, trở lại cái tên cũ của người Tầu và để là Kim Vân Kiều Truyện”(8).

Nếu thật có nhan đề Đoạn trường tân thanh do chính tác giả đặt thì theo ý chúng tôi, không một ai dám tự tiện đặt lại tên (dù đó là người bạn tri kỷ), đáng ngờ hơn nữa là sửa lại bằng một cái tên rất bình thường là “Kim Vân Kiều”. Ngược lại, từ “Kim Vân Kiều” gốc Hán rất dễ bị sửa thành một nhan đề hay và ý nghĩa sâu sắc là “Đoạn trường tân thanh”, nhất là khi tin và dựa vào mấy chữ “đoạn trường tân thanh” từ bài thơ của cụ Phạm Quý Thích. Do đó, tên gọi Kim Vân Kiều truyện không phải như tục truyền do Phạm Quý Thích đổi nhan đề (theo Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim) hay các phường in ở Hà Nội tự tiện đặt ra như nhiều người suy đoán.
 

Dựa vào bản khắc Liễu Văn Đường 1866, là bản cổ nhất hiện còn lại ta thấy ở dòng cuối cùng của bản LVĐ 1866 đã khắc là Kim Vân Kiều truyện quyển hoàn 金 雲 翹 傳 卷 完 (bản Liễu Văn Đường 1871, bản Thịnh Mỹ Đường 1879… cũng khắc như vậy), ngay cả bản Đoạn trường tân thanh, Kiều Oánh Mậu 1902 ở trang cuối cũng vẫn ghi “Kim Vân Kiều truyện chung” (xem hình)(9). Vậy nhan đề gốc là Kim Vân Kiều Truyện 金 雲 翹 傳 chứ không phải là Kim Vân Kiều tân truyện, nhà tàng bản Liễu Văn Đường đã thêm vào chữ “tân” như hàm ý bản chuyển thể chữ Nôm (từ văn sang thơ) của cụ Nguyễn Du là một bản mới khác với nguyên tác của Trung Quốc. Thông thường khi chuyển thể từ tác phẩm gốc Hán sang Quốc ngữ (chữ Nôm), các nhà Nho vẫn lấy tên gốc rồi có thể thêm vào mấy chữ “tân truyện”, “diễn âm”… chẳng hạn như truyện Nôm Hoa Tiên có tên gốc là Hoa tiên ký hay Đệ bát tài tử Hoa tiên diễn âm là một truyện dài bằng thơ Nôm do Nguyễn Huy Tự phỏng theo ca bản của Trung Quốc có tên là Hoa tiên ký hay Đệ bát tài tử Hoa tiên ký và truyện thơ Nôm Nhị Độ Mai (khuyết danh) đã phỏng theo tiểu thuyết Trung Quốc Nhị Độ Mai còn có tên là Nhị Độ Mai kỳ thuyết, Trung hiếu tiết nghĩa nhị độ mai. Truyện Kiều cũng thế, nguyên truyện Trung Quốc là tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện 金 雲 翹 傳(10) của Thanh Tâm Tài Nhân và tự nhiên cụ Nguyễn Du cũng sẽ đặt nhan đề là Kim Vân Kiều truyện.
 

"Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân. Dịch: Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đăng Na giới thiệu. Nxb Đại Học Sư Phạm 2008 - Ảnh: nxbdhsp.edu.vn

Nhà Nho Nguyễn Thắng trong Kim Vân Kiều án(11) vào khoảng 1830 đã từng gọi truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Du là “Kim Vân Kiều quốc ngữ truyện” (truyện Nôm Kim Vân Kiều), Phan Thúc Trực(12) (1808 - 1852) và Cao Bá Quát(13) (1808 - 1855) (thời Nguyễn), Nguyễn Văn San(14) (1808 - 1883) cũng từng gọi tên như thế và đặc biệt là Nguyễn Hữu Lập, dù khi sao chép và san cải bản Kiều có nhan đề Đoạn Trường tân thanh vào năm 1870, nhưng chính trong bài tựa chữ Hán của Đoạn trường Tân Thanh, Nguyễn Hữu Lập đã viết: “Cận kiến nhân gia Kim Vân Kiều truyện (…) Lương Đường Lập trai Phạm tiên sinh thi: 近 見 人 家 金 雲 翹 傳 (…) 良 堂 立 齋 氾 先 生 詩 (Gần đây đã xem thấy quyển “Kim Vân Kiều truyện” do Lương Đường Phạm Lập Trai đề thơ)(15). Nguyễn Hữu Lập cho biết quyển Kim Vân Kiều truyện này có cả lời bình của Liên Trì Ngư Giả Vũ Trinh và Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng và đoan chắc truyện này do chính thủ bút của Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du Tố Như ông lưu truyền 50 năm qua. Cụ Phạm Quý Thích sau khi đọc bản thảo chưa in của cụ Nguyễn Du, lúc đó chắc là Kim Vân Kiều truyện nhưng cụ đã xúc động vì nỗi đoạn trường của nàng Kiều mà thực ra cũng chính là nỗi đoạn trường của người tri kỷ, tri âm với mình là tác giả Nguyễn Du nên đã viết thành bài thơ bất hủ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm: Nghe “tiếng thơ” mới quặn lòng mà có xúc cảm. Nhà thơ chỉ cảm động vì nội dung, cái “nỗi đoạn trường” của tập thơ diễn âm mới chứ không phải là cái nhan đề Kim Vân Kiều. Cụ Phạm không dùng chữ “độc” (đọc) mà dùng chữ “thính” (nghe) cũng đủ để cho thấy nhà thơ không phải “đọc” một truyện thơ có nhan đề là Đoạn trường tân thanh. Không có gì bảo đảm là Phạm Quý Thích đã viết chính xác nhan đề Đoạn trường tân thanh. Người đầu tiên gây nên sự ngộ nhận về nhan đề Đoạn trường tân thanh có lẽ là Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân khi xác nhận: “Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh” qua bài tựa Đoạn trường tân thanh viết năm Minh Mạng, bài tựa này lần đầu tiên được Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim công bố nhưng cho đến nay chưa ai tìm thấy bản gốc Đoạn trường tân thanh này ở đâu và có đúng là bài tựa viết cho Truyện Kiều khắc in hay bản thảo vào khoảng năm Minh Mạng? Lạc khoản của bài tựa đề:

“皇朝明命萬萬年之仲春,上浣 僊峰夢蓮堂主人,書于鶴江之嘆花軒” (Ngay đầu tháng Hai, niên hiệu Minh Mạng, viết ở Thán Hoa hiên, Hạc giang. Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân)(16) cũng không xác định năm Minh Mạng (1820 - 1841) thứ bao nhiêu? Nếu Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim có trong tay bản cổ nguyên tác quý giá này trước khi cụ Nguyễn Du mất thì tại sao không thấy nhắc đến trong suốt bài tựa (hay ở chú thích) của các cụ trong sách Truyện Thúy Kiều 1925? Đây là một thiếu sót đáng tiếc của các bậc tiền bối khi khảo cứu Truyện Kiều khiến hậu sinh không biết tìm đâu ra để đối chứng! Qua bài tựa của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân, ta thấy ông xác định Tố Như đã đặt nhan đề là Đoạn trường tân thanh nhưng như đã nghi vấn, khả năng là bài tựa viết khá lâu sau bài thơ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm của Phạm Quý Thích và khi tác giả Nguyễn Du qua đời năm 1820 nên Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã ngộ nhận về nhan đề Truyện Kiều qua mấy chữ Đoạn trường tân thanh từ thơ của Phạm Quý Thích. Ngoài ra, còn một tục truyền khác lại cho vua Minh Mạng đã cho đổi tên Kim Vân Kiều truyện thành Đoạn trường tân thanh nữa, theo bản Nôm Kim Vân Kiều truyện 金 雲 翹 傳, ký hiệu V.N.B.60, không rõ niên đại, có đoạn chép tay (bút lông) như sau:

“…Tiên Điền Nguyễn Du diễn xuất quốc âm danh Kim Vân Kiều truyện, phụng Minh Mạng ngự lãm (tứ) (cãi) (vi) Đoạn Trường Tân Thanh (tòng kinh bản dã)...  仙田阮攸演出國音名金雲翹傳,奉明命御覽(賜)(改)(為)斷腸新聲(從京本也)” (… Nguyễn Du ở Tiên Điền diễn ra quốc âm, đặt tên là Kim Vân Kiều truyện, được vua Minh Mạng đọc và (cho) (đổi) (tên) (làm) Đoạn Trường Tân Thanh (đó là theo bản kinh)…)(17). Nếu Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã biết vua Minh Mạng cho đổi nhan đề Truyện Kiều, lẽ nào ông tự tiện khi quân khi viết: “Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh”? Điều này đã chứng minh đoạn văn trong bản Kiều Nôm V.N.B.60 không đáng tin cậy. Như thế, các thông tin này chứng tỏ có sự thay đổi nhan đề gốc do cụ Nguyễn Du đặt.

Bản Nôm sớm nhất hiện còn lại có nhan đề Đoạn trường tân thanh chính là bản chép tay của nhà Nho Nguyễn Hữu Lập 1870 (bản Đoạn trường tân thanh do Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đề tựa đời Minh Mạng nay không tìm thấy) nhưng như trên đã dẫn chứng, Nguyễn Hữu Lập đã san cải, dựa vào bản thảo chép tay của Nguyễn Du với nhan đề Kim Vân Kiều truyện nhưng ông đã ghi nhan đề cho bản chép tay của mình là Đoạn trường tân thanh có lẽ là vì lúc bấy giờ ở Huế(18) đã quen dùng nhan đề này rồi. Theo Kiều Oánh Mậu đã viết lời tựa “Tân khắc Đoạn trường tân thanh lệ ngôn thập tắc” cho bản in Đoạn trường tân thanh năm 1902 như sau: “Truyện này nguyên tên là Kim Vân Kiều là nhân theo bản của Trung Quốc. Nay bản kinh gọi là Đoạn trường tân thanh”(19), cho thấy từ xưa, nhan đề gốc đúng là Kim Vân Kiều truyện.

Vậy đã rõ, nhan đề khởi thủy của “Truyện Kiều” do chính Thi hào Nguyễn Du đặt là Kim Vân Kiều truyện nhưng khi Truyện Kiều vào Huế, khởi đầu từ bài thơ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm của nhà Nho Phạm Quý Thích mới gây ra ngộ nhận về nhan đề. Có thể một nhà Nho nổi tiếng nào đó lúc ấy đã tự ý đổi nhan đề là Đoạn trường tân thanh hoặc cũng có thể là Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân khi xác nhận cụ Nguyễn Du đặt nhan đề là Đoạn trường tân thanh nên người sau mới tin theo như Nguyễn Hữu Lập, Kiều Oánh Mậu...

Nay, chúng tôi là hậu học, sau khi đã tìm hiểu lại ngọn nguồn, xin đề nghị trả lại nhan đề gốc do thi hào Nguyễn Du đặt cho một tuyệt tác thi ca nổi tiếng trong và ngoài nước từ gần 2 thế kỷ qua đó là KIM VÂN KIỀU TRUYỆN 金 雲 翹 傳.

Biên Hòa ngày 11 tháng 7 năm 2014
Đ.V.T
(SH310/12-14)

.......................................
1. “Kim Vân Kiều” là sách gì? Chưa nói đến sự tích thiệt không, chưa kể văn chương hay dở, chỉ nhắc  đến cái tên sách thì nghe đã không thể nào ngửi được; vì sao thế? Phàm bộ truyện nào, dầu trong có bao nhiêu nhân vật mặc lòng, chỉ là một người làm chủ nhân: sự tích là sự tích một người chủ nhân ấy, thì tên sách cũng theo đó mà gọi. Nay truyện ấy là sự tích cô Vương Thúy Kiều, mà tên sách đặt ba người: một người thì lấy chữ họ mà mất tên, hai người thì lấy chữ tên mà mất họ, thì thiệt là đốt vô cùng. Cái tên ấy, chắc là tự nhà khắn bản in đặt ra, chứ ông Nguyễn Du chắc không đặt tên dốt như thế? Dù cái tên ấy là nguyên bản của Tàu, là nguyên bản của Tàu thì càng đủ biết rằng truyện ấy đặt ra bởi một anh Tàu dốt nào đó mà thôi.” Ngô Đức Kế, Luận về chánh học cùng tà thuyết, Tạp chí Nam Phong số 86. 1924

2. Thực ra cách gọi “Truyện Kiều” chỉ là khẩu ngữ bình dân, không phải là nhan đề chính thống khi  xuất bản, tên gọi “Truyện Kiều” đã thấy có từ thời Nguyễn Văn San (1808 - 1883) viết trong Quốc văn tùng ký rồi sau Phạm Quỳnh mới dùng đến. Tên gọi truyện “Thúy Kiều” cũng vậy, có trong ca dao: “Làm trai biết đánh Tổ Tôm, Uống trà Mạn Hảo (Chính Thái), xem nôm Thúy Kiều”.

3. Tuyên bố tại kỳ họp thứ 37 Đại hội đồng UNESCO ở Pa-ri (Pháp) ngày 25-10-2013, Nguồn: http://kieuhocvietnam.vn/vi/news/Tin-tuc/Ky-niem-250-nam-ngay-sinh-dai-thi-hao-nguyen-du-1765-2015- Vinh-danh-Dai-thi-hao-dan-toc-Nguyen-Du-36/

4. Công văn Số: 701/BVHTTDL-DSVH ngày 06 tháng 03 năm 2013 nguồn:  http://cinet.vn.

5. Hà Thị Tuệ Thành, Một số tư liệu xung quanh bài thơ “Giai nhân bất thị đáo tiền đường…”, Hội nghị  Quốc tế về chữ Nôm, Huế 2006, nguồn: http://www.nomfoundation.org.

6. Đào Thái Tôn, Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều - bản Liễu Văn Đường năm 1871, NXB KHXH  2005.

7. Đào Duy Anh, Khảo luận về Truyện Kiều, Nxb. Văn hóa Thông tin (tái bản), 2007.  

8. Thụy Khuê - Hoàng Xuân Hãn, nghiên cứu Kiều, nguồn: http://thuykhue.free.fr.  

9. Bản Nôm LVĐ 1866 và KOM 1902 lấy từ nguồn http://nomfoundation.org.  

10. Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều turyện 金雲翹傳, nguồn: http://www.gutenberg.org.  

11. Nguyễn Thắng, Kim Vân Kiều án, nguồn: http://lib.nomfoundation.org.

12. Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Đỗ Mộng Khương dịch, Hoa Bằng hiệu đính, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2009.

13. Vũ Khiêu, Nguyễn Văn Tú, Nguyễn Trác, Hoàng Hữu Yên, Hoàng Tạo (tuyển dịch), Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, Nxb. Văn học 1976.

14. Nguyễn Văn San, Quốc văn tùng ký 國文 叢 記 AB.383 từ thư viện gia đình của Maurice Durand, nguồn: http://findit.library.yale.edu

15. Truyện Kiều bản kinh đời Tự Đức 1870 - Đoạn trường tân thanh Nguyễn Quảng Tuân (phiên âm  và khảo dị), Nxb. Văn học 2003.

16. Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim (Hiệu khảo), Truyện Thúy Kiều, Vĩnh Hưng Long Thư Quán xuất bản. (in lần thứ hai, chữa lại rất kỹ và rất đúng với bản Nôm cổ) 1927.

17. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập II, Nxb. Khoa học Xã hội. 1990

18. Chỉ ở Huế mới xuất hiện nhan đề Đoạn trường tân thanh còn ở Hà Nội và miền Nam (Trương Vĩnh Ký, A. Michels) không thấy nhan đề này, chỉ có nhan đề Kim Vân Kiều (tân) truyện thôi.

19. Mười điều lệ ngôn Đoạn trường tân thanh in trong phần phụ lục Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang Nxb. Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp 1976.   






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.