ĐINH VĂN TUẤN
Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.
Kim Vân Kiều, Á Châu xuất bản năm 1957, 122tr - Ảnh: sachxua.net
Người thì cho là Kim Vân Kiều tân truyện hay Kim Vân Kiều truyện, người khác lại cho là Đoạn trường tân thanh, chưa kể các tên gọi khác như Kim Túy tình từ… sau khi cụ Ngô Đức Kế(1) bài bác tên gọi “Kim Vân Kiều”, Trần Trọng Kim đã gọi khác đi là Truyện Thúy Kiều, Hồ Đắc Hàm gọi là Kiều truyện dẫn giải, Phúc An gọi là Kim Kiều tình tự, Tản Đà gọi là Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện… rồi sau này tên gọi đơn giản “Truyện Kiều”(2) như Phạm Quỳnh với câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn” bắt đầu được dùng phổ biến đến nay. Tình trạng này cho thấy nhan đề tác phẩm nổi tiếng của cụ Nguyễn Du đã bị người đời quên lãng và chứng tỏ sự đình trệ của giới nghiên cứu khi không đưa ra được một luận chứng thuyết phục về tên gọi ban đầu của Truyện Kiều. Có thể nói không quá đáng rằng đây là một sự “bất kính” với cổ nhân. Trong tình hình hiện nay, khi mà Thi hào Nguyễn Du, nhà văn hóa, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng của Việt Nam đã được chọn là nhân vật văn hóa do thế giới vinh danh(3) và cả nước đang hướng tới Kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại Thi hào Nguyễn Du (1765 - 2015) cũng như đề nghị của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch khi phê duyệt Dự án “Phục nguyên văn bản Truyện Kiều được đồng thuận cao” của Hội Kiều học Việt Nam(4) thì việc phục hồi lại nhan đề gốc của Thi hào Nguyễn Du càng nên được chú trọng và tìm hiều lại một cách khoa học.
![]() |
"Kiều Truyện dẫn giải" của Hồ Đắc Hàm. Đắc Lập 1929 - Ảnh: sachxua.net |
Theo tục truyền, sau khi Nguyễn Du viết xong bản thảo Truyện Kiều, cụ đã đưa cho thân hữu là Phạm Quý Thích (1760 - 1825) đọc và sau khi cụ Phạm đọc xong đã khen ngợi rồi xúc cảm viết bài thơ đề tựa (thường ghi là Đề từ, Thi vân ở các bản Nôm) và đem khắc in lần đầu tiên. Thật ra bài thơ này không phải là bài đề tựa Truyện Kiều mà chỉ là bài thơ cảm tác mang tên Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm(5) của Phạm Quý Thích do đó không phải là bài thơ đề tựa cho bản khắc in từ cụ Phạm Quý Thích. Trước hay sau khi cụ Nguyễn Du qua đời, không hề có một bản khắc in Phạm Quý Thích nào cả, điều này cũng được nhà Kiều học Đào Thái Tôn chứng minh và khẳng định(6). Nhưng chính từ bài thơ này, người đời sau dựa vào mấy chữ đoạn trường tân thanh rồi tin rằng đây chính là nhan đề gốc do Nguyễn Du đặt, chẳng hạn như học giả Đào Duy Anh đã từng tin như vậy: “Sách mà ta thường gọi là Truyện Kiều hay là Truyện Thúy Kiều, Nguyễn Du đặt nguyên đề là Đoạn trường tân thanh. Lập Trai Phạm Quý Thích là bạn thân của Nguyễn Du, khi đem khắc bản để in mới nhân nguyên truyện của người Trung Quốc tên là Kim Vân Kiều truyện mà đổi tên là Kim Vân Kiều truyện”(7), hay học giả Hoàng Xuân Hãn cũng đã từng nói: “Có nhẽ cụ Nguyễn Du đặt tên truyện là Đoạn Trường Tân Thanh thực đấy, chứ không phải là Kim Vân Kiều đâu. Kim Vân Kiều là tên của sách Tầu. Rồi sau những người khắc khác, trở lại cái tên cũ của người Tầu và để là Kim Vân Kiều Truyện”(8).
Nếu thật có nhan đề Đoạn trường tân thanh do chính tác giả đặt thì theo ý chúng tôi, không một ai dám tự tiện đặt lại tên (dù đó là người bạn tri kỷ), đáng ngờ hơn nữa là sửa lại bằng một cái tên rất bình thường là “Kim Vân Kiều”. Ngược lại, từ “Kim Vân Kiều” gốc Hán rất dễ bị sửa thành một nhan đề hay và ý nghĩa sâu sắc là “Đoạn trường tân thanh”, nhất là khi tin và dựa vào mấy chữ “đoạn trường tân thanh” từ bài thơ của cụ Phạm Quý Thích. Do đó, tên gọi Kim Vân Kiều truyện không phải như tục truyền do Phạm Quý Thích đổi nhan đề (theo Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim) hay các phường in ở Hà Nội tự tiện đặt ra như nhiều người suy đoán.
![]() |
Dựa vào bản khắc Liễu Văn Đường 1866, là bản cổ nhất hiện còn lại ta thấy ở dòng cuối cùng của bản LVĐ 1866 đã khắc là Kim Vân Kiều truyện quyển hoàn 金 雲 翹 傳 卷 完 (bản Liễu Văn Đường 1871, bản Thịnh Mỹ Đường 1879… cũng khắc như vậy), ngay cả bản Đoạn trường tân thanh, Kiều Oánh Mậu 1902 ở trang cuối cũng vẫn ghi “Kim Vân Kiều truyện chung” (xem hình)(9). Vậy nhan đề gốc là Kim Vân Kiều Truyện 金 雲 翹 傳 chứ không phải là Kim Vân Kiều tân truyện, nhà tàng bản Liễu Văn Đường đã thêm vào chữ “tân” như hàm ý bản chuyển thể chữ Nôm (từ văn sang thơ) của cụ Nguyễn Du là một bản mới khác với nguyên tác của Trung Quốc. Thông thường khi chuyển thể từ tác phẩm gốc Hán sang Quốc ngữ (chữ Nôm), các nhà Nho vẫn lấy tên gốc rồi có thể thêm vào mấy chữ “tân truyện”, “diễn âm”… chẳng hạn như truyện Nôm Hoa Tiên có tên gốc là Hoa tiên ký hay Đệ bát tài tử Hoa tiên diễn âm là một truyện dài bằng thơ Nôm do Nguyễn Huy Tự phỏng theo ca bản của Trung Quốc có tên là Hoa tiên ký hay Đệ bát tài tử Hoa tiên ký và truyện thơ Nôm Nhị Độ Mai (khuyết danh) đã phỏng theo tiểu thuyết Trung Quốc Nhị Độ Mai còn có tên là Nhị Độ Mai kỳ thuyết, Trung hiếu tiết nghĩa nhị độ mai. Truyện Kiều cũng thế, nguyên truyện Trung Quốc là tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện 金 雲 翹 傳(10) của Thanh Tâm Tài Nhân và tự nhiên cụ Nguyễn Du cũng sẽ đặt nhan đề là Kim Vân Kiều truyện.
![]() |
"Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân. Dịch: Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đăng Na giới thiệu. Nxb Đại Học Sư Phạm 2008 - Ảnh: nxbdhsp.edu.vn |
Nhà Nho Nguyễn Thắng trong Kim Vân Kiều án(11) vào khoảng 1830 đã từng gọi truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Du là “Kim Vân Kiều quốc ngữ truyện” (truyện Nôm Kim Vân Kiều), Phan Thúc Trực(12) (1808 - 1852) và Cao Bá Quát(13) (1808 - 1855) (thời Nguyễn), Nguyễn Văn San(14) (1808 - 1883) cũng từng gọi tên như thế và đặc biệt là Nguyễn Hữu Lập, dù khi sao chép và san cải bản Kiều có nhan đề Đoạn Trường tân thanh vào năm 1870, nhưng chính trong bài tựa chữ Hán của Đoạn trường Tân Thanh, Nguyễn Hữu Lập đã viết: “Cận kiến nhân gia Kim Vân Kiều truyện (…) Lương Đường Lập trai Phạm tiên sinh thi: 近 見 人 家 金 雲 翹 傳 (…) 良 堂 立 齋 氾 先 生 詩” (Gần đây đã xem thấy quyển “Kim Vân Kiều truyện” do Lương Đường Phạm Lập Trai đề thơ)(15). Nguyễn Hữu Lập cho biết quyển Kim Vân Kiều truyện này có cả lời bình của Liên Trì Ngư Giả Vũ Trinh và Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng và đoan chắc truyện này do chính thủ bút của Hồng Sơn Liệp Hộ Nguyễn Du Tố Như ông lưu truyền 50 năm qua. Cụ Phạm Quý Thích sau khi đọc bản thảo chưa in của cụ Nguyễn Du, lúc đó chắc là Kim Vân Kiều truyện nhưng cụ đã xúc động vì nỗi đoạn trường của nàng Kiều mà thực ra cũng chính là nỗi đoạn trường của người tri kỷ, tri âm với mình là tác giả Nguyễn Du nên đã viết thành bài thơ bất hủ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm: Nghe “tiếng thơ” mới quặn lòng mà có xúc cảm. Nhà thơ chỉ cảm động vì nội dung, cái “nỗi đoạn trường” của tập thơ diễn âm mới chứ không phải là cái nhan đề Kim Vân Kiều. Cụ Phạm không dùng chữ “độc” (đọc) mà dùng chữ “thính” (nghe) cũng đủ để cho thấy nhà thơ không phải “đọc” một truyện thơ có nhan đề là Đoạn trường tân thanh. Không có gì bảo đảm là Phạm Quý Thích đã viết chính xác nhan đề Đoạn trường tân thanh. Người đầu tiên gây nên sự ngộ nhận về nhan đề Đoạn trường tân thanh có lẽ là Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân khi xác nhận: “Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh” qua bài tựa Đoạn trường tân thanh viết năm Minh Mạng, bài tựa này lần đầu tiên được Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim công bố nhưng cho đến nay chưa ai tìm thấy bản gốc Đoạn trường tân thanh này ở đâu và có đúng là bài tựa viết cho Truyện Kiều khắc in hay bản thảo vào khoảng năm Minh Mạng? Lạc khoản của bài tựa đề:
“皇朝明命萬萬年之仲春,上浣 僊峰夢蓮堂主人,書于鶴江之嘆花軒” (Ngay đầu tháng Hai, niên hiệu Minh Mạng, viết ở Thán Hoa hiên, Hạc giang. Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân)(16) cũng không xác định năm Minh Mạng (1820 - 1841) thứ bao nhiêu? Nếu Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim có trong tay bản cổ nguyên tác quý giá này trước khi cụ Nguyễn Du mất thì tại sao không thấy nhắc đến trong suốt bài tựa (hay ở chú thích) của các cụ trong sách Truyện Thúy Kiều 1925? Đây là một thiếu sót đáng tiếc của các bậc tiền bối khi khảo cứu Truyện Kiều khiến hậu sinh không biết tìm đâu ra để đối chứng! Qua bài tựa của Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân, ta thấy ông xác định Tố Như đã đặt nhan đề là Đoạn trường tân thanh nhưng như đã nghi vấn, khả năng là bài tựa viết khá lâu sau bài thơ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm của Phạm Quý Thích và khi tác giả Nguyễn Du qua đời năm 1820 nên Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã ngộ nhận về nhan đề Truyện Kiều qua mấy chữ Đoạn trường tân thanh từ thơ của Phạm Quý Thích. Ngoài ra, còn một tục truyền khác lại cho vua Minh Mạng đã cho đổi tên Kim Vân Kiều truyện thành Đoạn trường tân thanh nữa, theo bản Nôm Kim Vân Kiều truyện 金 雲 翹 傳, ký hiệu V.N.B.60, không rõ niên đại, có đoạn chép tay (bút lông) như sau:
“…Tiên Điền Nguyễn Du diễn xuất quốc âm danh Kim Vân Kiều truyện, phụng Minh Mạng ngự lãm (tứ) (cãi) (vi) Đoạn Trường Tân Thanh (tòng kinh bản dã)... 仙田阮攸演出國音名金雲翹傳,奉明命御覽(賜)(改)(為)斷腸新聲(從京本也)” (… Nguyễn Du ở Tiên Điền diễn ra quốc âm, đặt tên là Kim Vân Kiều truyện, được vua Minh Mạng đọc và (cho) (đổi) (tên) (làm) Đoạn Trường Tân Thanh (đó là theo bản kinh)…)(17). Nếu Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã biết vua Minh Mạng cho đổi nhan đề Truyện Kiều, lẽ nào ông tự tiện khi quân khi viết: “Tố Như tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh”? Điều này đã chứng minh đoạn văn trong bản Kiều Nôm V.N.B.60 không đáng tin cậy. Như thế, các thông tin này chứng tỏ có sự thay đổi nhan đề gốc do cụ Nguyễn Du đặt.
Bản Nôm sớm nhất hiện còn lại có nhan đề Đoạn trường tân thanh chính là bản chép tay của nhà Nho Nguyễn Hữu Lập 1870 (bản Đoạn trường tân thanh do Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đề tựa đời Minh Mạng nay không tìm thấy) nhưng như trên đã dẫn chứng, Nguyễn Hữu Lập đã san cải, dựa vào bản thảo chép tay của Nguyễn Du với nhan đề Kim Vân Kiều truyện nhưng ông đã ghi nhan đề cho bản chép tay của mình là Đoạn trường tân thanh có lẽ là vì lúc bấy giờ ở Huế(18) đã quen dùng nhan đề này rồi. Theo Kiều Oánh Mậu đã viết lời tựa “Tân khắc Đoạn trường tân thanh lệ ngôn thập tắc” cho bản in Đoạn trường tân thanh năm 1902 như sau: “Truyện này nguyên tên là Kim Vân Kiều là nhân theo bản của Trung Quốc. Nay bản kinh gọi là Đoạn trường tân thanh”(19), cho thấy từ xưa, nhan đề gốc đúng là Kim Vân Kiều truyện.
Vậy đã rõ, nhan đề khởi thủy của “Truyện Kiều” do chính Thi hào Nguyễn Du đặt là Kim Vân Kiều truyện nhưng khi Truyện Kiều vào Huế, khởi đầu từ bài thơ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm của nhà Nho Phạm Quý Thích mới gây ra ngộ nhận về nhan đề. Có thể một nhà Nho nổi tiếng nào đó lúc ấy đã tự ý đổi nhan đề là Đoạn trường tân thanh hoặc cũng có thể là Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân khi xác nhận cụ Nguyễn Du đặt nhan đề là Đoạn trường tân thanh nên người sau mới tin theo như Nguyễn Hữu Lập, Kiều Oánh Mậu...
Nay, chúng tôi là hậu học, sau khi đã tìm hiểu lại ngọn nguồn, xin đề nghị trả lại nhan đề gốc do thi hào Nguyễn Du đặt cho một tuyệt tác thi ca nổi tiếng trong và ngoài nước từ gần 2 thế kỷ qua đó là KIM VÂN KIỀU TRUYỆN 金 雲 翹 傳.
Biên Hòa ngày 11 tháng 7 năm 2014
Đ.V.T
(SH310/12-14)
.......................................
1. “Kim Vân Kiều” là sách gì? Chưa nói đến sự tích thiệt không, chưa kể văn chương hay dở, chỉ nhắc đến cái tên sách thì nghe đã không thể nào ngửi được; vì sao thế? Phàm bộ truyện nào, dầu trong có bao nhiêu nhân vật mặc lòng, chỉ là một người làm chủ nhân: sự tích là sự tích một người chủ nhân ấy, thì tên sách cũng theo đó mà gọi. Nay truyện ấy là sự tích cô Vương Thúy Kiều, mà tên sách đặt ba người: một người thì lấy chữ họ mà mất tên, hai người thì lấy chữ tên mà mất họ, thì thiệt là đốt vô cùng. Cái tên ấy, chắc là tự nhà khắn bản in đặt ra, chứ ông Nguyễn Du chắc không đặt tên dốt như thế? Dù cái tên ấy là nguyên bản của Tàu, là nguyên bản của Tàu thì càng đủ biết rằng truyện ấy đặt ra bởi một anh Tàu dốt nào đó mà thôi.” Ngô Đức Kế, Luận về chánh học cùng tà thuyết, Tạp chí Nam Phong số 86. 1924
2. Thực ra cách gọi “Truyện Kiều” chỉ là khẩu ngữ bình dân, không phải là nhan đề chính thống khi xuất bản, tên gọi “Truyện Kiều” đã thấy có từ thời Nguyễn Văn San (1808 - 1883) viết trong Quốc văn tùng ký rồi sau Phạm Quỳnh mới dùng đến. Tên gọi truyện “Thúy Kiều” cũng vậy, có trong ca dao: “Làm trai biết đánh Tổ Tôm, Uống trà Mạn Hảo (Chính Thái), xem nôm Thúy Kiều”.
3. Tuyên bố tại kỳ họp thứ 37 Đại hội đồng UNESCO ở Pa-ri (Pháp) ngày 25-10-2013, Nguồn: http://kieuhocvietnam.vn/vi/news/Tin-tuc/Ky-niem-250-nam-ngay-sinh-dai-thi-hao-nguyen-du-1765-2015- Vinh-danh-Dai-thi-hao-dan-toc-Nguyen-Du-36/
4. Công văn Số: 701/BVHTTDL-DSVH ngày 06 tháng 03 năm 2013 nguồn: http://cinet.vn.
5. Hà Thị Tuệ Thành, Một số tư liệu xung quanh bài thơ “Giai nhân bất thị đáo tiền đường…”, Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, Huế 2006, nguồn: http://www.nomfoundation.org.
6. Đào Thái Tôn, Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều - bản Liễu Văn Đường năm 1871, NXB KHXH 2005.
7. Đào Duy Anh, Khảo luận về Truyện Kiều, Nxb. Văn hóa Thông tin (tái bản), 2007.
8. Thụy Khuê - Hoàng Xuân Hãn, nghiên cứu Kiều, nguồn: http://thuykhue.free.fr.
9. Bản Nôm LVĐ 1866 và KOM 1902 lấy từ nguồn http://nomfoundation.org.
10. Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều turyện 金雲翹傳, nguồn: http://www.gutenberg.org.
11. Nguyễn Thắng, Kim Vân Kiều án, nguồn: http://lib.nomfoundation.org.
12. Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Đỗ Mộng Khương dịch, Hoa Bằng hiệu đính, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2009.
13. Vũ Khiêu, Nguyễn Văn Tú, Nguyễn Trác, Hoàng Hữu Yên, Hoàng Tạo (tuyển dịch), Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, Nxb. Văn học 1976.
14. Nguyễn Văn San, Quốc văn tùng ký 國文 叢 記 AB.383 từ thư viện gia đình của Maurice Durand, nguồn: http://findit.library.yale.edu
15. Truyện Kiều bản kinh đời Tự Đức 1870 - Đoạn trường tân thanh Nguyễn Quảng Tuân (phiên âm và khảo dị), Nxb. Văn học 2003.
16. Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim (Hiệu khảo), Truyện Thúy Kiều, Vĩnh Hưng Long Thư Quán xuất bản. (in lần thứ hai, chữa lại rất kỹ và rất đúng với bản Nôm cổ) 1927.
17. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập II, Nxb. Khoa học Xã hội. 1990
18. Chỉ ở Huế mới xuất hiện nhan đề Đoạn trường tân thanh còn ở Hà Nội và miền Nam (Trương Vĩnh Ký, A. Michels) không thấy nhan đề này, chỉ có nhan đề Kim Vân Kiều (tân) truyện thôi.
19. Mười điều lệ ngôn Đoạn trường tân thanh in trong phần phụ lục Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang Nxb. Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp 1976.
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.
THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.
NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?
NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.
HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)
LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).
THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.
NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.
PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.
TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?
NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...
TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.
HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.
TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...
TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.
PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.
TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)
NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...
NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.