Nhân cách thơ

09:32 03/12/2009
NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!

Minh họa: Ngô Lan Hương

Sáng nay cũng vậy, anh em tụ tập bên nhau vừa nhâm nhi cà phê vừa bàn tán thầm thì, rồi đường ai nấy đi, việc ai nấy làm. Giáo Mật vừa đi thành phố về kể chuyện bạn ông thất nghiệp mà giàu lên nhờ ngồi lỳ trước máy vi tính dịch truyện nước ngoài ra Việt ngữ cho các nậu làm sách, cho các báo, dịch một tháng cũng được năm, bảy triệu, thiệt là nơi dễ làm tiền, tiêu tiền, nhưng cũng nhố nhăng, bộn rộn lắm. Cũng giáo Mật ca cẩm chuyện tàu xe; xe thì đưa khách vào các quán ăn dọc đường để bị chém đẹp một dĩa tí tẹo cơm tới mười lăm, hai chục ngàn, còn tàu, ai lơ ngơ mới mua vé, đi tàu không mua vé rẻ hơn lại được trọng vọng, rồi cũng chính giáo Mật xa xót cho nhà nước thất thu mỗi một chuyến tàu cũng phải vài chục triệu chớ ít sao! Các bạn tôi cùng cười mỉm chi cái điều nghịch lý ấy và coi đó là chuyện vặt nơi đâu cũng có, coi bộ còn tồn tại lực ỳ đấy vào thiên niên kỷ mới.

Trong nhóm bạn tôi ngoài công chức, thầu khoán tư doanh, có một ông thi sĩ. Ông ta luôn để râu tóc bờm xờm, ăn bẩn, ở bẩn mà tâm hồn thường ngất ngưỡng trên mây. Không phải chúng tôi thích đánh bạn với kiểu người sống hoang dại, tùy tiện, ưa làm lập dị, muốn chơi nổi, chơi trội, bất cần đời, coi đời là “khoai!”, sống chỉ vì thơ, chết cũng tại thơ như ông thi sĩ tên là Hoàng, bút hiệu Thi Sĩ Hoàng này. Tại giáo Mật bạn thời tiểu học với Hoàng. Đã bạn thời thơ ấu già đời vẫn dễ thân nhau, không phân biệt sang hèn, quyền cao chức trọng. Có ông làm tới bộ trưởng vẫn không quên thằng bạn dù đang nheo nhóc đàn con dại, ngày ngày còm cõi trên chiếc xích lô độ nhật, nuôi con. Nể tình giáo Mật, chúng tôi người một ít, người một bữa bao cấp cà phê, thuốc lá cho thi sĩ Hoàng mỗi buổi sáng. Tốn không bao nhiêu nhưng chúng tôi được cái thú, được nghe thi sĩ đọc bài thơ mới toanh của ông vừa sáng tác chưa ráo mực, hoặc ông vừa viết dưới một cột đèn cao áp nào đó trong đêm. Còn chuyện chúng tôi mời ông Hoàng đến cơ quan vui liên hoan gì đó bọn tôi không ai dám, kể cả giáo Mật. Thi sĩ Hoàng khi đã nhậu xỉn gây lộn với cả cột điện, tiểu tiện bất cứ lúc nào, nhiều khi nằm mềm một đống bên lề đường. Say thì say, nhưng ông Hoàng biết chọn chỗ nằm dưới ánh đèn cao áp, cũng biết sợ nằm giữa đường, hoặc trong bóng tối xe cán chết. Kể ra ông say khôn chứ chẳng chịu say dại!? Còn những buổi sáng ông luôn tỉnh táo, bởi vậy chúng tôi không bỏ ông được, nhưng... bỏ thì thương, sương thì đôi khi cũng bị ảnh hưởng. Khi tỉnh ông hứa sẽ bỏ tật nhậu quá chén, nhưng rôi chứng nào tật nấy, chỉ thấy bôi tí rượu lên miệng là ông đã láng cháng, uống vào vài ly đã khật khưỡng giữa đất trời, khi đó có trời mới nói thủng lỗ tai ông. Ông say thật, say giả đố ai đoán được, nhưng ai cũng hiểu ông say như một nghề say! Sáng nay chủ nhật, bọn tôi ngồi ngâm nga cà kệ lâu hơn ngày thường. Ai cũng muốn tìm một chuyện gì vui vui của mình, của người khác đem ra góp chuyện. Thi sĩ Hoàng lắng nghe với bộ dạng trầm mặc... rồi cũng góp chuyện phê bình hai cô bán báo, ông Hoàng nói:

- Tàu xe, tôi miễn phê, tôi toàn đi quá giang, đến ăn nhiều bận cũng quá giang luôn, nên miễn bình. Làm thế nào quá giang được máy bay mới ngon! - Ông Hoàng nhấp ngụm cà phê và rít một hơi thuốc dài đến nổi gân cổ, rồi phà um ra khỏi miệng tím lịm, trơ cả hai hàm răng khói ám, nói tiếp- Tôi góp chuyện phiếm với các ông là chuyện hai cô bán báo. Các ông biết cô Thanh và cô Hoa chứ? Khách hàng thời kinh tế thị trường này là thượng đế, thậm chí khách nặng nhẹ cũng phải im...cười, mặt phải tươi như hoa. Tôi thường đến bưu cục hỏi tiền nhuận bút về chưa, vì túi rỗng thường trực nên tôi phải chận lĩnh tiền trước khi bưu tá đưa giấy mời, các cô giao dịch bực mình lắm nhưng luôn nhẹ nhàng: “Chưa về chú ạ”, chứ không nói cộc lốc: “không có;” và còn kính biếu cho tôi một nụ cười cho không! Chứ đâu như cô Thanh thấy tôi đến với bản mặt lạnh lùng, còn giả điếc khi tôi hỏi mượn tờ Văn Nghệ. Cô Hoa dễ tính hơn, dù không vui lòng cũng cho tôi tôi mượn, vẫn dịu dàng đưa tờ báo cho tôi với nụ cười hàm tiếu, nở khẽ khàng như cánh hoa xinh trên khuôn mặt trắng hồng, dù cho cô Hoa rất chi không ưa tôi. Các ông đồng ý với nhận xét của tôi chứ?

Tôi xin nói thêm, nhóm bọn tôi không chỉ gặp nhau khi uống cà phê buổi sáng mà hầu như chiều nào cũng chạm mặt nhau ở quày bán báo để đọc báo cọp, họa hoằn lắm mới mua một tờ có tin tức, sự kiện cần thiết. Tội nghiệp cô bán báo, xoay như vụ khi khách đông, lâu lâu cũng có người giả vờ cầm báo đọc, mắt liếc thấy cô bán báo quay người lấy báo cho khách là vù chạy, cầm luôn tờ báo đắt tiền nhất trong quầy, như tờ “Người Đẹp”, tờ “Thời Trang Trẻ”, các cô từng phàn nàn với tôi, từng bị mất báo. Thậm chí còn chỉ người đã mượn tờ báo quên trả, trở lại mượn báo đọc, nhờ tôi chú ý rình giùm nếu anh ta định trộm nữa. Lần ấy, tôi nói vui: “Cô bắt được quả tang cũng chịu vì hiện nay bộ luật hình sự của nước ta chưa phạt tội ăn cắp báo”. Cô nói: “Em muốn bắt cho lòi mặt chuột ra, nghe hắn xưng là sinh viên đó anh, sinh viên chi mà bẩn!”. Ông Hoàng bạn chúng tôi không hề ăn cắp báo, chỉ tật say nằm đường thôi và tội suốt ngày la cà quán sá, ít lắm cũng hai lần đến quày báo đọc báo cọp, mới làm phiền lòng các cô bán báo. Nay nghe chê cô Thanh bán báo, tôi mới nói với ông Hoàng:

- Cũng tại ông đọc nhờ dai quá, lại bảnh sáng đã mượn, thử hỏi các cô không làm mặt lạnh với ông sao được. Ông nên trách mình trước, trách người sau. Đồng ý với ông, so sánh giữa hai cô, cô Thanh tóc ngắn, cô Hoa tóc dài “đen nháy như một dòng sông” mà có lần ông đã làm thơ tặng đó thì cô Hoa dịu dàng, ăn nói mềm mỏng hơn cô Thanh. Tuy nhiên cô Thanh cũng tốt với ông đó chứ?

Ông Hoàng không nói gì. Người bạn thân của tôi, thường cùng tôi phê sáng, rượu chiều, tên là Mân, mải ngồi ngóng chuyện, giờ mới thủng thẳng góp lời khuyên thi sĩ Hoàng:

- Mấy cô bán báo có ghét ông cũng tại ông thôi. Ai đời, có bữa tôi thấy ông nằm mềm một đống ngay trước quày báo, ông chơi bôi bác vậy hỏi sao các cô không ưa. Chuyện ông nghèo cả thành phố này ai cũng biết, cho ông đọc cả ngày trước quày báo các cô cũng vui lòng, có điều ông đừng đến sớm quá, khi báo mới về người ta chưa bán ông cũng khoan hỏi mượn, buôn bán ai không sợ mất “mai xưa”, cũng đừng đợi lúc cô bấn búi chạy ra chạy vào bán báo cho khách, còn để mắt trông chừng kẻ xấu lấy cắp báo, ông mượn ngoài những lúc ấy tôi tin các cô sẽ vui lòng cho mượn, như tôi đây, khi nào mượn báo cũng nhận được nụ cười của cô Thanh mà ông cho là khó tính đấy nhé! Tài chưa?

- Chà bán báo cũng bày đặt may xưa, may đồ - ông Hoàng nói - Các ông binh hai cô bán báo quá hè - Bỗng dưng ông Hoàng bặm mặt dữ dằn như khi uống tới mà bị xúc phạm, ông nói - Tôi viết đơn góp ý đuổi quách con Thanh! Đồ chuyên môn giả điếc!

Mân bỗng nổi lô cồ lên. Chỉ mình tôi biết tại sao. Mấy tháng nay Mân bén duyên cô Thanh. Cô Thanh bãi ca lúc chín giờ đêm đã thấy chàng Mân của tôi la cà trước đó nửa giờ, mười lăm phút để đưa “em về... trong đêm..." Mân hiền và ít nói vậy mà khi nghe ông Hoàng nói tới cô Thanh, Mân bỗng bừng bừng mặt, nói đốp chát vào mặt ông Hoàng:

- Tôi chấp ông kiện đó, ông sai chưa lo sửa sai mà còn... đáng ra nhiều người kiện ông thì có. Nhiều khi ông nằm vạ vật đâu đó, khách nước ngoài họ thấy cười thành phố mình, ai ai, kể cả những người lao động bình thường họ cũng muốn giữ gìn thành phố mình được sạch, đẹp văn minh, văn hóa, còn ông cứ quậy riết ai chịu được? Ông có biết chính cô Thanh, ông chê là khó tính, mặt lạnh và chuyên môn giả điếc đó đã vào đồn công an xin chiếc xe đạp cho ông đấy. Nếu không có cô Thanh, ông phải nạp phạt mấy trăm ngàn, ông đào đâu ra tiền. Bài thơ của ông nhuận bút cao lắm chỉ sáu chục ngàn, chưa đủ cho ông uống rượu mỗi chiều. Tui nói thật, ông góp ý ẩu tui cạch mặt ông luôn đó nghe!

Mặt ông Hoàng ngớ ra khi nghe Mân nhắc lại chiếc xe đạp và không để ông Hoàng định hỏi gì, tôi chen vào nhắc lại chuyện tôi cùng Mân và cô Thanh đến đồn công an xin chiếc xe đạp. Nguyên do là vậy:

“Một buổi chiều thi sĩ Hoàng nhậu đâu đó đến độ đi liểng xiểng và lạc vào con đường vắng ven bờ sông, xung quanh không có người để thi sĩ quấy nhiễu, ông ta đành gây lộn với chiếc xe đạp của ông, chiếc xe đạp đã cà tàng, long vít, lại trật sên nên ông dắt nó không chịu đi, trì không đứng. Thi sĩ Hoàng nổi điên quẳng ngay xuống dòng sông để rảnh tay, rảnh chân đi lang thang suốt đêm. Sáng mai ông tỉnh rượu, nhớ mường tượng đoạn sông ông đã quăng chiếc xe, ông tìm mãi không có. Sau đó có người cho biết xe ông: “... khi đêm mấy anh công an vớt đưa vào đồn rồi...”. Ông đến đồn xin lại xe đạp, ông trưởng đồn đòi phạt hai trăm ngàn mới cho nhận xe. Khi ấy thi sĩ Hoàng mới lên tận nhà tôi, nhờ tôi đến đồn tả khổ về cảnh vợ bỏ của ông và sự nghiệp làm thơ của ông để xin giúp ông chiếc xe đạp. Tôi hẹn với thi sĩ sẽ cố gắng giúp, sau đó tôi bàn với Mân, Mân lại đi nhờ cô Thanh bán báo vì cô có ông anh là chiến sĩ ở đồn đó. Cả ba chúng tôi cùng đi. Ban đầu ông trưởng trạm cương quyết đòi phạt tiền, nhưng cô Thanh đã ra sức năn nỉ: “...Ông Hoàng là nhà thơ đó anh, ông bị vợ bỏ nên sinh buồn chán đi lang thang, hoàn cảnh ông cũng tội lắm, áo quần thì nhờ bạn bè cho, tiền không có mua báo đọc nữa thì lấy tiền đâu uống rượu đến say đến độ dụt xe...” Chúng tôi cũng phụ họa xin, ông trưởng trạm nghe cũng thương tình hứa không phạt nữa, nhưng nhờ chúng tôi gọi ông Hoàng đến làm biên bản nhận xe và cam đoan không đem xe quẳng xuống sông nữa. Nếu tái phạm ông cương quyết không tha.”

Chúng tôi xin xe đạp cho thi sĩ Hoàng mới nghe mấy anh công an cực nhọc như thế nào với chiếc xe vô thừa nhận của thi sĩ. Ông trưởng trạm kể:

- Tôi đang ngủ, bỗng trực ban điện đến: “...Thưa anh, một người đi rọi cá ban đêm thấy một chiếc xe đạp nằm dưới sông, em nghi có người tự tử, xin ý kiến của anh...” Tôi tức tốc đi đến đồn, vội quá quên mặc áo lạnh. Sau khi các chiến sĩ cùng với hai thợ lặn dân vạn đò chúng tôi thuê lặn tìm từ chiếc xe đạp, vòng vòng tròn ra sông, những vòng lặn sau càng rộng ra, ai nấy đều lạnh cóng. Các anh biết cái lạnh tháng chạp xứ mình rồi chứ, ấy vậy chúng tôi mò tìm cho tới sáng vẫn không có xác người. Đang phân vân thì ông chủ quán cà phê mở cửa quán dọn bán đi ra cho biết: “Hôm qua có người dắt xe đạp đi loạng quạng ở đây, lúc đó cũng chập choạng rồi nên tôi không chú ý rõ lắm, nhưng thấy tướng ông ta say rượu". Tôi đang mệt, đang bực thì thấy ông Hoàng lò mò cái đầu bù xù vào đồn xin lại chiếc xe đạp vì khi về đồn tôi có nhờ ông chủ quán cà phê thấy có ai tới tìm xe cứ bảo chúng tôi đã đem về đồn rồi. Cô và hai anh thấy đấy, phạt hai trăm ngàn là may lắm rồi, tiền thợ lặn, tiền bồi dưỡng anh em, đồn tôi phải chịu. Nhưng thôi, cô Thanh đã nói vậy tôi thông cảm cho ông Hoàng một lần duy nhất!”.

Tôi từ từ kể rõ cho cả bọn nghe. Cả bọn cười vang. Riêng thi sĩ Hoàng bỗng trầm tư, trên khuôn mặt sần sùi, nham nhúa thấp thoáng hiện vẻ hối hận, ông Hoàng nói:

- Các ông kín thật, chừ tôi mới biết người xin xe lại cho tôi. Trước đây, tôi tưởng đồn thương cảm hoàn cảnh của tôi mà tha cho chứ. Ai dè lại nhờ cô Thanh. Các ông đi làm kẻo trễ. Để tôi ngồi đây làm thơ tặng cô Thanh gọi là chút lòng cám ơn cô ta.

- Hôm nay chủ nhật mà - Mân nói.

Thi sĩ Hoàng lại ngớ mặt ra vẻ ngạc nhiên lần nữa:

- Té ra là chủ nhật à, ôi, tôi quên cả ngày tháng!

Thấy vẻ lẩn thẩn của thi sĩ Hoàng, bọn tôi cùng cười một trận rôm rả đầu ngày rồi cùng đứng lên đường ai nấy đi, việc ai nấy làm. Duy thi sĩ Hoàng còn ngồi lại, tay cầm bút, tay cầm mảnh giấy lột từ bao thuốc Jet ra với bản mặt trầm tư, mặc tưởng... bọn tôi đoán: có lẽ ông ta đang làm thơ, nên không tạm biệt thi sĩ...


Chiều, tôi ghé quày bán báo như thường lệ, chưa đến đã thấy một đám người đang bu đen bên lề quầy báo: đa số người ta cười khinh bỉ, còn người lạ thì xuýt xoa tội nghiệp, lại có người mắng: “đồ say rượu, làm mất trật tự giao thông”... Tôi chen đám người vào xem, hóa ra thi sĩ Hoàng nằm một đống, chình ình bên rệ đường có dẫn dòng nước bẩn. Ao quần, mặt mày của thi sĩ tèm lem bùn, đất, có lẽ thi sĩ đã vật vả, lăn lộn mới dây bùn như vậy. Tuy hai mắt ông nhắm nghiền, nhưng vẫn ôm khư khư tờ báo ấp trên ngực. Tôi cúi xuống vực ông ngồi dậy, ông hất tay nhìn tôi xa lạ, rồi lại nằm xuống. Lúc ấy Mân đang đứng ngoài quầy báo, phía trong cô Thanh vẫy tay gọi tôi. Tôi bước đến, cô Thanh nói:

- Anh biết không, khi hồi em mới giao ca đã thấy ông ta ngồi chực trên ghế, ông ta tặng em một bài thơ, thấy ông đàng hoàng em nhận và cám ơn thật lòng. Em sực nhớ chiều qua đọc báo thấy có tên Thi Sĩ Hoàng đoạt giải thơ, cuộc thi thơ báo Văn nghệ thành phố, em tin cho ông hay và tặng ông luôn tờ báo. Ông mừng rỡ cầm tờ báo sang quán rượu bên đường, rồi trở lại hỏi mượn em năm ngàn, nói: “Cho tôi mượn mấy ngàn uống mừng được giải, mai trả”. Em thấy ông vui, em cũng vui, chuyện văn nghệ ai mà chả thế, khi được thơ in là họ tự thưởng cho mình, nên em nói: “Anh cầm luôn mà tiêu, em không đòi, coi như em mừng ông vậy. Mới đầu, ông ngồi một mình sau đó ông ra đường gặp ai ông cũng khoe được giải thơ và trăn tờ báo ra cho người ta đọc. Những người ông khoe, họ đều mua rượu rót mừng ông người một vài ly, thế là ông say mèm. Cũng tại em cho ông tiền, tại em tin cho ông hay! Anh và anh Mân làm thế nào đưa ông về nhà, kẻo ông trúng gió em lại thêm rách việc. Hai anh đưa ông về giùm, nhé, để ông nằm đấy, kỳ lắm!

Nghe cô Thanh nói một hồi, tôi gật đầu đồng ý và nói:

- Đó là cái giá phải trả. Ông Hoàng ông vì thơ mà quên tất cả buông xả tất cả cũng vì thơ, thật là tội nghiệp!

Mân đứng im lặng từ khi gọi tôi vào và lặng nghe cô Thanh và tôi nói xong. Khi ấy, Mân mới nói:

- Sao ông bảo ông Hoàng quên tất cả, ông ta nhớ tất cả, ông nhớ ông là một nhà thơ, thậm chí còn ngộ nhận là một nhà thơ nổi tiếng, kiểu ông sống be bét, cẩu thả như vậy là ông tự tạo khác thường. Ở thành phố mình và cả Miền Nam ông chưa nổi tiếng nhà thơ nhưng đã nổi tiếng say thơ, say rượu nằm đường và kiểu sống khác thường, đúng hơn là bất bình thường. Ông Hoàng, ông nhớ tất cả, ông chỉ quên duy nhất một điều, đó là ông quên nhân cách của một nhà thơ.

Tôi không tranh cãi với Mân vì tôi nghĩ: các nhà thơ không phải lúc nào cũng ở trạng thái bình thường mà thi thoảng cũng có phút bất thường, chính những phút bất thường, thường có những câu thơ hay. Tôi chưa vội đánh giá thi sĩ Hoàng nhưng cũng thầm công nhận với Mân là ông Hoàng vì thơ mà quên bén nhân cách của một thi sĩ. Tôi nói:

- Mân ạ, tôi và Mân vực ông lên xích lô, áp tải ông ta về, để ông nằm đó, người ta lại cười chúng mình. Trong đám người hiếu kỳ một cách độc ác kia, khối người biết bọn mình cùng thi sĩ Hoàng uống cà phê buổi sáng ở vỉa hè, có thể họ sẽ nghĩ bọn mình cùng một giuộc như nhau.

Tôi và Mân áp tải thi sĩ Hoàng về nhà của ông. Hai, ba bận thi sĩ nhảy xuống xe xích lô, đứng láng cháng giữa đường chận người xe qua đường, khoe tờ báo và vùng vằng không chịu đi xích lô...

Sáng mai tại quán cà phê vỉa hè chúng tôi chợt giựt mình thấy thi sĩ Hoàng đi vào quán. Người ngợm ông càng gớm ghiếc, mặt mày phờ phạc, râu tóc nhôm nhoam. Ông lấy tờ báo ra khoe với chúng tôi, kỳ lạ tờ báo sạch đẹp một cách tinh tươm, cứ như ông vừa mua tờ báo ở quầy báo nào đó. Có lẽ ông ôm ấp tờ báo từ trong lồng ngực mình mà quên bản thân của ông rất cần sự chăm sóc...

Huế, ngày 5 tháng 4 năm 1999
N.V.V
(125/07-99)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H

  • TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…

  • NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.

  • THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…

  • NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.

  • XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.

  • PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt  vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...

  • PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.

  • QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.

  • XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNGNgày trăng tròn lẻ. Tháng Trung Thu năm Đại Bảo thứ 3.Người hai lưỡi bảo là ngày Sao Thổ phạm vào Thái Âm.Người ngắn lưỡi nói Sao Chổi mọc ở phương Tây.Người dài lưỡi bảo có tinh vượn đen ăn mặt trời, ngày Nhật thực, nếu không yểm kỹ sông Nhị đang nảy vàng ròng sẽ ngừng.Động đất.

  • VIỆT HÙNGTrước đây, anh là người lừng danh, một tay "cua - rơ khét tiếng" trên xa lộ. Đã một thời anh chỉ biết chiến thắng. Người ta từng mệnh danh, anh là người sinh ra để đua xe đạp, anh không hề có đối thủ. Anh xem thường sự chiến thắng của mình, cho nó là điều hiển nhiên. Anh coi ánh hào quang của vòng nguyệt quế chỉ có tác dụng tô điểm thêm cho vẻ đẹp của mình mà thôi. Bởi, không có nó, anh vẫn là một thần tượng chẳng gì "khuất phục nổi".

  • NGUYỄN THÁNH NGÃĐêm nay trăng nhão, không biết là đêm trăng gì. Ở xa nhìn về đồi Kà Mạ vẫn một khối đen sì. Nếu có ai nhướn mắt nhìn thật kỹ sẽ thấy cái khối đen sì ấy nhô lên như một cái đầu người đôi mắt lấp láy đom đóm. Thỉnh thoảng gió hất cái đầu tóc rối bù xù bay về phía ruộng. Tiếng chim cú kêu mỗi lúc một thê lương, ớn lạnh từng đốt xương sống...

  • THÁI BÁ TÂNTháng trước, ở phường B. thị trấn Đức Giang, huyện Gia Lâm, nơi tôi về nghỉ hưu mấy năm nay, đã xẩy ra một vụ trọng án có nhiều tình tiết rất kỳ lạ, có thể nói bí ẩn không sao giải thích nổi, đến mức cuối cùng người ta quay sang cho rằng nhất định phải có yếu tố thần linh ma quỷ trong vụ này.

  • PHẠM THỊ ANH NGA                  Truyện ngắn...trái tim có những lý lẽ mà lý trí không thể nào biết được...

  • PHAN VĂN LỢIBuổi giao lưu và trao giải thưởng cho các tác giả đoạt giải trong cuộc thi viết truyện ngắn do Hội Nhà văn tổ chức đã tiến hành được gần nửa giờ. Gã nhấp nhỏm trên chiếc ghế kê phía sau cánh gà sân khấu, bồn chồn không yên. Chừng thông cảm với tâm trạng của gã, cô gái phục vụ mặc áo dài đỏ bưng tới cho gã ly nước, nhẹ nhàng nói: "Chú cứ yên tâm ngồi nghỉ cho khoẻ. Giải A bao giờ cũng trao cuối cùng, chú ạ!"

  • KHẢI NGUYÊN Pa-ri, mùa hạ năm 198...Vườn Bách thảo giữa thành phố kề sông Xen phía tả ngạn. Ông đến đây như một kẻ lánh đời, sợ nơi đông người. Thật ra, phần lớn đường phố Pa-ri trong giờ làm việc không ồn, không thừa thãi người đi nhong như ở Việt Nam. Em ông ở quê ra Hà Nội chơi đứng ngắm dòng người và xe nườm nượp qua lại cứ tự hỏi: những con người này đi đâu, về đâu mà tuôn mãi như là chẳng ai về nhà cả, như là cái "nghiệp" trời đày phải đi.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNhiều năm trôi qua tôi đã trở thành người đàn ông đứng tuổi. Có một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Nhưng mỗi lần nghĩ về nàng, một người đàn bà chỉ kịp quen trên chuyến đò từ Huế ra Phong Điền, chia tay nàng để nhiều năm sau, tôi mới được gặp lại nàng trong một hoàn cảnh khác, tôi vẫn giữ nguyên một cảm giác hết sức lạ lùng. Một ý nghĩa luôn ám ảnh tôi khá kỳ quặc rằng: Tôi đã bị nàng hiểu lầm, là một chàng lính giải phóng “hám gái, dại khờ”... Bởi vì sau vụ việc ấy, chính tôi cũng rủa thầm mình là ngu ngốc.