Nhân cách thơ

09:32 03/12/2009
NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!

Minh họa: Ngô Lan Hương

Sáng nay cũng vậy, anh em tụ tập bên nhau vừa nhâm nhi cà phê vừa bàn tán thầm thì, rồi đường ai nấy đi, việc ai nấy làm. Giáo Mật vừa đi thành phố về kể chuyện bạn ông thất nghiệp mà giàu lên nhờ ngồi lỳ trước máy vi tính dịch truyện nước ngoài ra Việt ngữ cho các nậu làm sách, cho các báo, dịch một tháng cũng được năm, bảy triệu, thiệt là nơi dễ làm tiền, tiêu tiền, nhưng cũng nhố nhăng, bộn rộn lắm. Cũng giáo Mật ca cẩm chuyện tàu xe; xe thì đưa khách vào các quán ăn dọc đường để bị chém đẹp một dĩa tí tẹo cơm tới mười lăm, hai chục ngàn, còn tàu, ai lơ ngơ mới mua vé, đi tàu không mua vé rẻ hơn lại được trọng vọng, rồi cũng chính giáo Mật xa xót cho nhà nước thất thu mỗi một chuyến tàu cũng phải vài chục triệu chớ ít sao! Các bạn tôi cùng cười mỉm chi cái điều nghịch lý ấy và coi đó là chuyện vặt nơi đâu cũng có, coi bộ còn tồn tại lực ỳ đấy vào thiên niên kỷ mới.

Trong nhóm bạn tôi ngoài công chức, thầu khoán tư doanh, có một ông thi sĩ. Ông ta luôn để râu tóc bờm xờm, ăn bẩn, ở bẩn mà tâm hồn thường ngất ngưỡng trên mây. Không phải chúng tôi thích đánh bạn với kiểu người sống hoang dại, tùy tiện, ưa làm lập dị, muốn chơi nổi, chơi trội, bất cần đời, coi đời là “khoai!”, sống chỉ vì thơ, chết cũng tại thơ như ông thi sĩ tên là Hoàng, bút hiệu Thi Sĩ Hoàng này. Tại giáo Mật bạn thời tiểu học với Hoàng. Đã bạn thời thơ ấu già đời vẫn dễ thân nhau, không phân biệt sang hèn, quyền cao chức trọng. Có ông làm tới bộ trưởng vẫn không quên thằng bạn dù đang nheo nhóc đàn con dại, ngày ngày còm cõi trên chiếc xích lô độ nhật, nuôi con. Nể tình giáo Mật, chúng tôi người một ít, người một bữa bao cấp cà phê, thuốc lá cho thi sĩ Hoàng mỗi buổi sáng. Tốn không bao nhiêu nhưng chúng tôi được cái thú, được nghe thi sĩ đọc bài thơ mới toanh của ông vừa sáng tác chưa ráo mực, hoặc ông vừa viết dưới một cột đèn cao áp nào đó trong đêm. Còn chuyện chúng tôi mời ông Hoàng đến cơ quan vui liên hoan gì đó bọn tôi không ai dám, kể cả giáo Mật. Thi sĩ Hoàng khi đã nhậu xỉn gây lộn với cả cột điện, tiểu tiện bất cứ lúc nào, nhiều khi nằm mềm một đống bên lề đường. Say thì say, nhưng ông Hoàng biết chọn chỗ nằm dưới ánh đèn cao áp, cũng biết sợ nằm giữa đường, hoặc trong bóng tối xe cán chết. Kể ra ông say khôn chứ chẳng chịu say dại!? Còn những buổi sáng ông luôn tỉnh táo, bởi vậy chúng tôi không bỏ ông được, nhưng... bỏ thì thương, sương thì đôi khi cũng bị ảnh hưởng. Khi tỉnh ông hứa sẽ bỏ tật nhậu quá chén, nhưng rôi chứng nào tật nấy, chỉ thấy bôi tí rượu lên miệng là ông đã láng cháng, uống vào vài ly đã khật khưỡng giữa đất trời, khi đó có trời mới nói thủng lỗ tai ông. Ông say thật, say giả đố ai đoán được, nhưng ai cũng hiểu ông say như một nghề say! Sáng nay chủ nhật, bọn tôi ngồi ngâm nga cà kệ lâu hơn ngày thường. Ai cũng muốn tìm một chuyện gì vui vui của mình, của người khác đem ra góp chuyện. Thi sĩ Hoàng lắng nghe với bộ dạng trầm mặc... rồi cũng góp chuyện phê bình hai cô bán báo, ông Hoàng nói:

- Tàu xe, tôi miễn phê, tôi toàn đi quá giang, đến ăn nhiều bận cũng quá giang luôn, nên miễn bình. Làm thế nào quá giang được máy bay mới ngon! - Ông Hoàng nhấp ngụm cà phê và rít một hơi thuốc dài đến nổi gân cổ, rồi phà um ra khỏi miệng tím lịm, trơ cả hai hàm răng khói ám, nói tiếp- Tôi góp chuyện phiếm với các ông là chuyện hai cô bán báo. Các ông biết cô Thanh và cô Hoa chứ? Khách hàng thời kinh tế thị trường này là thượng đế, thậm chí khách nặng nhẹ cũng phải im...cười, mặt phải tươi như hoa. Tôi thường đến bưu cục hỏi tiền nhuận bút về chưa, vì túi rỗng thường trực nên tôi phải chận lĩnh tiền trước khi bưu tá đưa giấy mời, các cô giao dịch bực mình lắm nhưng luôn nhẹ nhàng: “Chưa về chú ạ”, chứ không nói cộc lốc: “không có;” và còn kính biếu cho tôi một nụ cười cho không! Chứ đâu như cô Thanh thấy tôi đến với bản mặt lạnh lùng, còn giả điếc khi tôi hỏi mượn tờ Văn Nghệ. Cô Hoa dễ tính hơn, dù không vui lòng cũng cho tôi tôi mượn, vẫn dịu dàng đưa tờ báo cho tôi với nụ cười hàm tiếu, nở khẽ khàng như cánh hoa xinh trên khuôn mặt trắng hồng, dù cho cô Hoa rất chi không ưa tôi. Các ông đồng ý với nhận xét của tôi chứ?

Tôi xin nói thêm, nhóm bọn tôi không chỉ gặp nhau khi uống cà phê buổi sáng mà hầu như chiều nào cũng chạm mặt nhau ở quày bán báo để đọc báo cọp, họa hoằn lắm mới mua một tờ có tin tức, sự kiện cần thiết. Tội nghiệp cô bán báo, xoay như vụ khi khách đông, lâu lâu cũng có người giả vờ cầm báo đọc, mắt liếc thấy cô bán báo quay người lấy báo cho khách là vù chạy, cầm luôn tờ báo đắt tiền nhất trong quầy, như tờ “Người Đẹp”, tờ “Thời Trang Trẻ”, các cô từng phàn nàn với tôi, từng bị mất báo. Thậm chí còn chỉ người đã mượn tờ báo quên trả, trở lại mượn báo đọc, nhờ tôi chú ý rình giùm nếu anh ta định trộm nữa. Lần ấy, tôi nói vui: “Cô bắt được quả tang cũng chịu vì hiện nay bộ luật hình sự của nước ta chưa phạt tội ăn cắp báo”. Cô nói: “Em muốn bắt cho lòi mặt chuột ra, nghe hắn xưng là sinh viên đó anh, sinh viên chi mà bẩn!”. Ông Hoàng bạn chúng tôi không hề ăn cắp báo, chỉ tật say nằm đường thôi và tội suốt ngày la cà quán sá, ít lắm cũng hai lần đến quày báo đọc báo cọp, mới làm phiền lòng các cô bán báo. Nay nghe chê cô Thanh bán báo, tôi mới nói với ông Hoàng:

- Cũng tại ông đọc nhờ dai quá, lại bảnh sáng đã mượn, thử hỏi các cô không làm mặt lạnh với ông sao được. Ông nên trách mình trước, trách người sau. Đồng ý với ông, so sánh giữa hai cô, cô Thanh tóc ngắn, cô Hoa tóc dài “đen nháy như một dòng sông” mà có lần ông đã làm thơ tặng đó thì cô Hoa dịu dàng, ăn nói mềm mỏng hơn cô Thanh. Tuy nhiên cô Thanh cũng tốt với ông đó chứ?

Ông Hoàng không nói gì. Người bạn thân của tôi, thường cùng tôi phê sáng, rượu chiều, tên là Mân, mải ngồi ngóng chuyện, giờ mới thủng thẳng góp lời khuyên thi sĩ Hoàng:

- Mấy cô bán báo có ghét ông cũng tại ông thôi. Ai đời, có bữa tôi thấy ông nằm mềm một đống ngay trước quày báo, ông chơi bôi bác vậy hỏi sao các cô không ưa. Chuyện ông nghèo cả thành phố này ai cũng biết, cho ông đọc cả ngày trước quày báo các cô cũng vui lòng, có điều ông đừng đến sớm quá, khi báo mới về người ta chưa bán ông cũng khoan hỏi mượn, buôn bán ai không sợ mất “mai xưa”, cũng đừng đợi lúc cô bấn búi chạy ra chạy vào bán báo cho khách, còn để mắt trông chừng kẻ xấu lấy cắp báo, ông mượn ngoài những lúc ấy tôi tin các cô sẽ vui lòng cho mượn, như tôi đây, khi nào mượn báo cũng nhận được nụ cười của cô Thanh mà ông cho là khó tính đấy nhé! Tài chưa?

- Chà bán báo cũng bày đặt may xưa, may đồ - ông Hoàng nói - Các ông binh hai cô bán báo quá hè - Bỗng dưng ông Hoàng bặm mặt dữ dằn như khi uống tới mà bị xúc phạm, ông nói - Tôi viết đơn góp ý đuổi quách con Thanh! Đồ chuyên môn giả điếc!

Mân bỗng nổi lô cồ lên. Chỉ mình tôi biết tại sao. Mấy tháng nay Mân bén duyên cô Thanh. Cô Thanh bãi ca lúc chín giờ đêm đã thấy chàng Mân của tôi la cà trước đó nửa giờ, mười lăm phút để đưa “em về... trong đêm..." Mân hiền và ít nói vậy mà khi nghe ông Hoàng nói tới cô Thanh, Mân bỗng bừng bừng mặt, nói đốp chát vào mặt ông Hoàng:

- Tôi chấp ông kiện đó, ông sai chưa lo sửa sai mà còn... đáng ra nhiều người kiện ông thì có. Nhiều khi ông nằm vạ vật đâu đó, khách nước ngoài họ thấy cười thành phố mình, ai ai, kể cả những người lao động bình thường họ cũng muốn giữ gìn thành phố mình được sạch, đẹp văn minh, văn hóa, còn ông cứ quậy riết ai chịu được? Ông có biết chính cô Thanh, ông chê là khó tính, mặt lạnh và chuyên môn giả điếc đó đã vào đồn công an xin chiếc xe đạp cho ông đấy. Nếu không có cô Thanh, ông phải nạp phạt mấy trăm ngàn, ông đào đâu ra tiền. Bài thơ của ông nhuận bút cao lắm chỉ sáu chục ngàn, chưa đủ cho ông uống rượu mỗi chiều. Tui nói thật, ông góp ý ẩu tui cạch mặt ông luôn đó nghe!

Mặt ông Hoàng ngớ ra khi nghe Mân nhắc lại chiếc xe đạp và không để ông Hoàng định hỏi gì, tôi chen vào nhắc lại chuyện tôi cùng Mân và cô Thanh đến đồn công an xin chiếc xe đạp. Nguyên do là vậy:

“Một buổi chiều thi sĩ Hoàng nhậu đâu đó đến độ đi liểng xiểng và lạc vào con đường vắng ven bờ sông, xung quanh không có người để thi sĩ quấy nhiễu, ông ta đành gây lộn với chiếc xe đạp của ông, chiếc xe đạp đã cà tàng, long vít, lại trật sên nên ông dắt nó không chịu đi, trì không đứng. Thi sĩ Hoàng nổi điên quẳng ngay xuống dòng sông để rảnh tay, rảnh chân đi lang thang suốt đêm. Sáng mai ông tỉnh rượu, nhớ mường tượng đoạn sông ông đã quăng chiếc xe, ông tìm mãi không có. Sau đó có người cho biết xe ông: “... khi đêm mấy anh công an vớt đưa vào đồn rồi...”. Ông đến đồn xin lại xe đạp, ông trưởng đồn đòi phạt hai trăm ngàn mới cho nhận xe. Khi ấy thi sĩ Hoàng mới lên tận nhà tôi, nhờ tôi đến đồn tả khổ về cảnh vợ bỏ của ông và sự nghiệp làm thơ của ông để xin giúp ông chiếc xe đạp. Tôi hẹn với thi sĩ sẽ cố gắng giúp, sau đó tôi bàn với Mân, Mân lại đi nhờ cô Thanh bán báo vì cô có ông anh là chiến sĩ ở đồn đó. Cả ba chúng tôi cùng đi. Ban đầu ông trưởng trạm cương quyết đòi phạt tiền, nhưng cô Thanh đã ra sức năn nỉ: “...Ông Hoàng là nhà thơ đó anh, ông bị vợ bỏ nên sinh buồn chán đi lang thang, hoàn cảnh ông cũng tội lắm, áo quần thì nhờ bạn bè cho, tiền không có mua báo đọc nữa thì lấy tiền đâu uống rượu đến say đến độ dụt xe...” Chúng tôi cũng phụ họa xin, ông trưởng trạm nghe cũng thương tình hứa không phạt nữa, nhưng nhờ chúng tôi gọi ông Hoàng đến làm biên bản nhận xe và cam đoan không đem xe quẳng xuống sông nữa. Nếu tái phạm ông cương quyết không tha.”

Chúng tôi xin xe đạp cho thi sĩ Hoàng mới nghe mấy anh công an cực nhọc như thế nào với chiếc xe vô thừa nhận của thi sĩ. Ông trưởng trạm kể:

- Tôi đang ngủ, bỗng trực ban điện đến: “...Thưa anh, một người đi rọi cá ban đêm thấy một chiếc xe đạp nằm dưới sông, em nghi có người tự tử, xin ý kiến của anh...” Tôi tức tốc đi đến đồn, vội quá quên mặc áo lạnh. Sau khi các chiến sĩ cùng với hai thợ lặn dân vạn đò chúng tôi thuê lặn tìm từ chiếc xe đạp, vòng vòng tròn ra sông, những vòng lặn sau càng rộng ra, ai nấy đều lạnh cóng. Các anh biết cái lạnh tháng chạp xứ mình rồi chứ, ấy vậy chúng tôi mò tìm cho tới sáng vẫn không có xác người. Đang phân vân thì ông chủ quán cà phê mở cửa quán dọn bán đi ra cho biết: “Hôm qua có người dắt xe đạp đi loạng quạng ở đây, lúc đó cũng chập choạng rồi nên tôi không chú ý rõ lắm, nhưng thấy tướng ông ta say rượu". Tôi đang mệt, đang bực thì thấy ông Hoàng lò mò cái đầu bù xù vào đồn xin lại chiếc xe đạp vì khi về đồn tôi có nhờ ông chủ quán cà phê thấy có ai tới tìm xe cứ bảo chúng tôi đã đem về đồn rồi. Cô và hai anh thấy đấy, phạt hai trăm ngàn là may lắm rồi, tiền thợ lặn, tiền bồi dưỡng anh em, đồn tôi phải chịu. Nhưng thôi, cô Thanh đã nói vậy tôi thông cảm cho ông Hoàng một lần duy nhất!”.

Tôi từ từ kể rõ cho cả bọn nghe. Cả bọn cười vang. Riêng thi sĩ Hoàng bỗng trầm tư, trên khuôn mặt sần sùi, nham nhúa thấp thoáng hiện vẻ hối hận, ông Hoàng nói:

- Các ông kín thật, chừ tôi mới biết người xin xe lại cho tôi. Trước đây, tôi tưởng đồn thương cảm hoàn cảnh của tôi mà tha cho chứ. Ai dè lại nhờ cô Thanh. Các ông đi làm kẻo trễ. Để tôi ngồi đây làm thơ tặng cô Thanh gọi là chút lòng cám ơn cô ta.

- Hôm nay chủ nhật mà - Mân nói.

Thi sĩ Hoàng lại ngớ mặt ra vẻ ngạc nhiên lần nữa:

- Té ra là chủ nhật à, ôi, tôi quên cả ngày tháng!

Thấy vẻ lẩn thẩn của thi sĩ Hoàng, bọn tôi cùng cười một trận rôm rả đầu ngày rồi cùng đứng lên đường ai nấy đi, việc ai nấy làm. Duy thi sĩ Hoàng còn ngồi lại, tay cầm bút, tay cầm mảnh giấy lột từ bao thuốc Jet ra với bản mặt trầm tư, mặc tưởng... bọn tôi đoán: có lẽ ông ta đang làm thơ, nên không tạm biệt thi sĩ...


Chiều, tôi ghé quày bán báo như thường lệ, chưa đến đã thấy một đám người đang bu đen bên lề quầy báo: đa số người ta cười khinh bỉ, còn người lạ thì xuýt xoa tội nghiệp, lại có người mắng: “đồ say rượu, làm mất trật tự giao thông”... Tôi chen đám người vào xem, hóa ra thi sĩ Hoàng nằm một đống, chình ình bên rệ đường có dẫn dòng nước bẩn. Ao quần, mặt mày của thi sĩ tèm lem bùn, đất, có lẽ thi sĩ đã vật vả, lăn lộn mới dây bùn như vậy. Tuy hai mắt ông nhắm nghiền, nhưng vẫn ôm khư khư tờ báo ấp trên ngực. Tôi cúi xuống vực ông ngồi dậy, ông hất tay nhìn tôi xa lạ, rồi lại nằm xuống. Lúc ấy Mân đang đứng ngoài quầy báo, phía trong cô Thanh vẫy tay gọi tôi. Tôi bước đến, cô Thanh nói:

- Anh biết không, khi hồi em mới giao ca đã thấy ông ta ngồi chực trên ghế, ông ta tặng em một bài thơ, thấy ông đàng hoàng em nhận và cám ơn thật lòng. Em sực nhớ chiều qua đọc báo thấy có tên Thi Sĩ Hoàng đoạt giải thơ, cuộc thi thơ báo Văn nghệ thành phố, em tin cho ông hay và tặng ông luôn tờ báo. Ông mừng rỡ cầm tờ báo sang quán rượu bên đường, rồi trở lại hỏi mượn em năm ngàn, nói: “Cho tôi mượn mấy ngàn uống mừng được giải, mai trả”. Em thấy ông vui, em cũng vui, chuyện văn nghệ ai mà chả thế, khi được thơ in là họ tự thưởng cho mình, nên em nói: “Anh cầm luôn mà tiêu, em không đòi, coi như em mừng ông vậy. Mới đầu, ông ngồi một mình sau đó ông ra đường gặp ai ông cũng khoe được giải thơ và trăn tờ báo ra cho người ta đọc. Những người ông khoe, họ đều mua rượu rót mừng ông người một vài ly, thế là ông say mèm. Cũng tại em cho ông tiền, tại em tin cho ông hay! Anh và anh Mân làm thế nào đưa ông về nhà, kẻo ông trúng gió em lại thêm rách việc. Hai anh đưa ông về giùm, nhé, để ông nằm đấy, kỳ lắm!

Nghe cô Thanh nói một hồi, tôi gật đầu đồng ý và nói:

- Đó là cái giá phải trả. Ông Hoàng ông vì thơ mà quên tất cả buông xả tất cả cũng vì thơ, thật là tội nghiệp!

Mân đứng im lặng từ khi gọi tôi vào và lặng nghe cô Thanh và tôi nói xong. Khi ấy, Mân mới nói:

- Sao ông bảo ông Hoàng quên tất cả, ông ta nhớ tất cả, ông nhớ ông là một nhà thơ, thậm chí còn ngộ nhận là một nhà thơ nổi tiếng, kiểu ông sống be bét, cẩu thả như vậy là ông tự tạo khác thường. Ở thành phố mình và cả Miền Nam ông chưa nổi tiếng nhà thơ nhưng đã nổi tiếng say thơ, say rượu nằm đường và kiểu sống khác thường, đúng hơn là bất bình thường. Ông Hoàng, ông nhớ tất cả, ông chỉ quên duy nhất một điều, đó là ông quên nhân cách của một nhà thơ.

Tôi không tranh cãi với Mân vì tôi nghĩ: các nhà thơ không phải lúc nào cũng ở trạng thái bình thường mà thi thoảng cũng có phút bất thường, chính những phút bất thường, thường có những câu thơ hay. Tôi chưa vội đánh giá thi sĩ Hoàng nhưng cũng thầm công nhận với Mân là ông Hoàng vì thơ mà quên bén nhân cách của một thi sĩ. Tôi nói:

- Mân ạ, tôi và Mân vực ông lên xích lô, áp tải ông ta về, để ông nằm đó, người ta lại cười chúng mình. Trong đám người hiếu kỳ một cách độc ác kia, khối người biết bọn mình cùng thi sĩ Hoàng uống cà phê buổi sáng ở vỉa hè, có thể họ sẽ nghĩ bọn mình cùng một giuộc như nhau.

Tôi và Mân áp tải thi sĩ Hoàng về nhà của ông. Hai, ba bận thi sĩ nhảy xuống xe xích lô, đứng láng cháng giữa đường chận người xe qua đường, khoe tờ báo và vùng vằng không chịu đi xích lô...

Sáng mai tại quán cà phê vỉa hè chúng tôi chợt giựt mình thấy thi sĩ Hoàng đi vào quán. Người ngợm ông càng gớm ghiếc, mặt mày phờ phạc, râu tóc nhôm nhoam. Ông lấy tờ báo ra khoe với chúng tôi, kỳ lạ tờ báo sạch đẹp một cách tinh tươm, cứ như ông vừa mua tờ báo ở quầy báo nào đó. Có lẽ ông ôm ấp tờ báo từ trong lồng ngực mình mà quên bản thân của ông rất cần sự chăm sóc...

Huế, ngày 5 tháng 4 năm 1999
N.V.V
(125/07-99)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.