Nhạc sĩ Trần Hữu Pháp 75 mùa xuân

10:32 23/10/2008
MAI VYNhạc sĩ Trần Hữu Pháp sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho giáo nghèo tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Từ năm 1946, Trần Hữu Pháp thoát ly gia đình phục vụ cách mạng. Trong sáu mươi năm, anh đã gắn bó với nhiều vùng đất của Tổ quốc.

Từ Thiếu sinh quân anh về Sở văn hoá thông tin Liên khu năm. Đây là nơi anh sáng tác đầu tay với bài hát Ước mơ xanh. Đến tháng 10 năm 1954, anh tập kết ra Bắc và vào Đoàn thanh niên xung phong Trung ương. Thời kỳ này anh viết cho Đoàn được một số tiết mục múa hát như: Hò đắp đường, Mở đường về phía , Bài ca tình nguyện... Sau đó anh được điều về Trung ương Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam và làm công tác biên tập ở báo Tiền Phong, Nhà xuất bản Kim Đồng.
Sau khi học xong khoá sáng tác dành cho các Trưởng đoàn văn công do Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước phụ trách, anh được phân công về Ban biên tập âm nhạc tại Nhà xuất bản Âm nhạc Bộ văn hoá. Trong những năm chiến tranh ác liệt, anh tình nguyện đi thực tế ở tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh cùng với một số nhạc sĩ Hoàng Vân, Xuân Giao, Phạm Tuyên... Bài hát Em bé Bảo Ninh (dựa theo thơ Nguyễn Văn Dinh) được ra đời tại đây, giữa thời điểm giặc Mỹ leo thang ném bom vào Thủ đô Hà Nội. Thời gian sau đó, anh được điều về phụ trách âm nhạc tại Đài phát thanh Hà Nội; là một trong những người đầu tiên cùng với một số văn nghệ sĩ như Tô Hoài, Hồ Bắc, Bùi Hạnh Cẩm, nữ thi sĩ Anh Thơ, Phan Thị Thanh Nhàn tham gia thành lập Hội Văn nghệ Hà Nội.

Trên hai mươi năm ở Hà Nội anh luôn ước mơ làm thế nào để được về với xứ Huế. Năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh với nhạc sĩ Mai Sao - chỉ huy dàn nhạc giao hưởng đi cùng chuyến xe qua cầu Hiền Lương; sung sướng quá anh đã tự mình xuống xe đi bộ 18 cây số đến Đông Hà, rồi đón chiếc xe của Nhà máy nước vào Huế. Trên đường vào Huế, vết tích chiến tranh đã để lại nhiều cảm xúc mạnh mẽ và anh đã viết bài hát Tiến về Thành Huế. Bài hát này đã được nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên, Quý Dương hát và phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt lúc ấy. Là một trong những người đầu tiên tiếp thu Đài phát thanh Huế, anh làm trưởng phòng văn nghệ cho đến khi thành lập Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, rồi được bầu vào Ủy viên thường vụ và Chủ tịch Phân hội âm nhạc tỉnh (Bình Trị Thiên). Cùng một lúc anh được Hội Nhạc sĩ Việt Nam bầu vào Ban Kiểm tra, Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ (khoá III). Trong thời kì làm Chủ tịch Phân hội âm nhạc tỉnh Bình Trị Thiên, nhạc sĩ Trần Hữu Pháp đã đưa hết nhiệt tình, tận tuỵ đam mê với nghề nghiệp, tổ chức được nhiều trại sáng tác và giới thiệu nhiều tác giả, tác phẩm trên sóng phát thanh và truyền hình (Trung ương và địa phương); tổ chức nhiều buổi giao lưu âm nhạc, bồi dưỡng cho nhiều nhạc sĩ trong phân hội trở thành cây bút vững chắc.

Năm 1984, Trần Hữu Pháp được Hội Nhạc sĩ Việt Nam cử đi dự Hội nghị âm nhạc quốc tế tại Praha Tiệp Khắc. Trần Hữu Pháp cũng sáng tác kịp thời chào mừng Praha mùa xuân. Đến Mạc Tư Khoa anh viết bài Còn mãi trong tôi chiều Matxcơva. Anh cũng tham dự rất nhiều trại sáng tác do phân hội cùng với Tỉnh và hội Trung ương tổ chức năm 1978. Trại sáng tác tại Huế mời các nhạc sĩ Trung ương như: Hoàng Vân, Huy Du, Văn Ký, Hồ Bắc, Tân Huyền, Trần Hoàn... Đây chính thời điểm Dòng sông ai đã đặt tên của Trần Hữu Pháp ra đời. Buổi báo cáo kết quả của Trại sáng tác, đến dự có nhà thơ Tố Hữu, đã chữa cho Trần Hữu Pháp một chữ “mãi” thành chữ “nhớ” để lời ca được rõ nét hơn (người đi nhớ Huế không quên). Bài hát này được ca sĩ Thanh Lượng (người dân tộc Tày ở Hoà Bình) công tác theo chồng ở đoàn Ca Múa Bình Trị Thiên hát đầu tiên trong đêm báo cáo ấy; sau đó nghệ sĩ Nhân dân Thu Hiền, Thanh Hoa cùng nhiều ca sĩ chuyên và không chuyên hát. Bài hát đã thấm sâu trong muôn triệu trái tim của quần chúng nhân dân cả nước và kiều bào nước ngoài.

Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Trần Hữu Pháp đã viết rất nhiều ca khúc hay, kịp thời động viên tinh thần quân và dân những năm chiến tranh ác liệt. Sau hoà bình giải phóng đất nước, anh cũng có nhiều ca khúc đến với người lao động xây dựng xã hội mới. Hàng chục ca khúc hay của anh: Cháu yêu chú thương binh, Ông trăng non và chú cuội già, Hò đắp đường, Em bé Bảo Ninh, Dòng sông ai đã đặt tên, Ánh mắt thời gian, Huế trong tôi,... đã để lại ấn tượng sâu sắc và sống mãi trong lòng quần chúng. Anh không chỉ viết cho người lớn mà còn viết về thiếu nhi, cũng được đánh dấu một thời và phổ biến cho thiếu nhi khắp cả nước. Trong những năm gần đây, nhạc sĩ Trần Hữu Pháp luôn gắn liền với nơi chôn rau cắt rốn của anh với bài Quê hương với một sắc dừa xanh. Anh yêu Cố đô Huế đến nỗi khi đi xa, anh cảm thấy như mình muốn mang Huế theo cùng. Chính vì lẽ đó mà trong hành trang sáng tác của anh đã có nhiều ca khúc hay viết về Huế xưa và nay, mang giai điệu dịu dàng sâu lắng âm hưởng dân gian, khắc họa rõ nét riêng của xứ Huế.

Trong hàng loạt tác phẩm của Trần Hữu Pháp đã đoạt giải trong nước và Quốc tế, bài Hành khúc dưới ngọn cờ hoà bình đã được chọn làm bài ca chính thức của phong trào thiếu niên và nhi đồng quốc tế tại Bungari. Đặc biệt, trong thời gian đến Maxcơva anh đã viết bài “Còn mãi trong tôi chiều Maxcơva” và bài “Người về Pari” để nhớ đến Bác Hồ khi Người hoạt động ở Pari trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ.
Đã qua chặng đường 75 mùa xuân cùng với 60 năm đam mê âm nhạc, nhạc sĩ Trần Hữu Pháp được Nhà nước tặng thưởng: Huy chương vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật, Huy chương kháng chiến chống Pháp hạng nhì và Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Mặc dù ở độ tuổi 75 nhưng anh vẫn âm thầm lặng lẽ để sưu tầm nhạc dân gian và ấp ủ của anh để hoàn thành tiếp những tuyển tập ca khúc, hoàn thành bài hát ru (Nguồn gốc hô bài chòi) của Bình Định quê anh và tập ca khúc Gửi Huế cung đàn.
75 tuổi đời, nhạc sĩ Trần Hữu Pháp vẫn tràn đầy sức trẻ. Tình yêu con người, yêu quê hương đất nước trong anh như da diết hơn, mặn mà sâu lắng hơn...
                        Nam Giao, Huế tháng 20 năm 2006
                                                M.V

(nguồn: TCSH số 219 - 05 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)