Nhà văn và tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học

10:58 09/01/2009
INRASARACác hội thảo bàn về nâng cao tính chuyên nghiệp trong sáng tạo văn học đã lôi kéo không ít nhà văn tham gia bàn cãi sôi nổi. Là tín hiệu đáng mừng: văn học Việt đang tự ý thức, tự phản tỉnh (self consciousness).

Bởi, nền văn chương Việt đang rất nghiệp dư, ai đã nói thế? Trong khi tinh thần chuyên nghiệp khác hẳn tinh thần nghiệp dư ở chỗ: “đề cao yếu tố kĩ thuật” thay vì tùy thuộc vào cảm hứng; “gắn liền với tinh thần nghiên cứu” thay vì tin cậy vào kinh nghiệm, “luôn luôn có tính tự giác cao trong khi đó, buông thả theo thói quen, tinh thần nghiệp dư lại đầy tính chất tự phát” và, tinh thần chuyên nghiệp đầy tính chất cạnh tranh chứ không làm qua loa đại khái rất trung bình.
Thử liên hệ sang môn bóng đá.
Cầu thủ chuyên nghiệp luôn có ý thức tự giác và trách nhiệm cao. Ngày mai sang câu lạc bộ khác, họ vẫn đá hết mình; đá chống lại câu lạc bộ cũ ở quê hương, họ vẫn hết mình. Trong khi cầu thủ nghiệp dư luôn bị tình cảm chi phối. Chuyên nghiệp, họ nhắm vào cái cao hơn, khác hơn mà không phải nhìn quanh thế giới nhỏ bé mình, từ đó an tâm về hưu với vài ba thành tích bé con.

Cầu thủ chuyên nghiệp nghiên cứu nghề mang tính khoa học, phân tích để nhận định ta và đối thủ trước/ sau trận đấu. Tại sao trận này mình yếu kém, nguyên nhận mình mất phong độ, đâu là thế mạnh của đối phương... Trong lúc cầu thủ nghiệp dư chỉ dựa vào kinh nghiệm. Yêu cầu trước tiên đối với nhà chuyên nghiệp là tinh thần luôn ở tư thế mở, học để biết văn chương thiên hạ đã đi tới đâu, và nhất là từ bỏ mọi định kiến và bảo thủ. Chưa hiểu gì về hậu hiện đại mà đã lên tiếng chống lại hậu hiện đại, mới đọc vài ba tập thơ “hậu hiện đại” nhếch nhác mà đã dị ứng với trào lưu văn chương này, thì không gì nghiệp dư hơn.
Cầu thủ chuyên nghiệp luôn có ý thức nâng cao kĩ thuật cá nhân, tập đi tập lại một ngón nghề, vài đường banh cho đến khi thuần thục; bên cạnh tuân thủ chặt chẽ chiến thuật của huấn luyện viên, dù bản thân không bao giờ ưa nổi bản mặt ông ta. Họ cũng sẵn sàng thay đổi chiến thuật, khi cần. Khác dân nghiệp dư, ỷ lại vào bản năng và đá một cách đầy cảm hứng và tùy tiện. Nhà văn chuyên nghiệp kĩ thuật viết không lặp lại người khác đã đành, họ cũng không có quyền lặp lại mình; luôn biết thay đổi phong cách, tìm tòi lối viết mới đáp ứng đề tài thích hợp.

Cuối cùng, họ cạnh tranh sòng phẳng, quyết liệt và đến cùng. Với đồng đội, với người bạn thân trong cùng đội bóng. Chuyên nghiệp, một nhà văn không sốt ruột trước thành tích của bạn văn, không săm soi thành công của kẻ khác, càng không cản ngăn đường đi của thế hệ trẻ, mới.
Nhưng cái khác cốt tủy của văn chương so với bóng đá là nó phải khám phá thủ thuật khác. Khác hay là chết. Một cầu thủ trẻ có thể học lại ngón nghề của Zidane mà không bị chê trách, miễn là anh/ chị ta biết ghi bàn vào lưới đối phương, mang chiến thắng cho đội nhà. Nhà văn thì không. Bạn phải khám phá bút pháp mới, lối thể hiện mới.
Một nhà văn được đánh giá qua 4 điểm cốt yếu: [1] Nhà văn có tư tưởng nào mới không, hoặc động cập đến các vấn đề cốt tủy nào của dân tộc, đất nước và thời đại không? [2] Họ có sáng tác nhiều tác phẩm, dấn vào nhiều thể loại để mở rộng và đào sâu tư tưởng/ vấn đề đó không? [3] Ông/ bà ta có khám phá bút pháp nào mới, để thể hiện tư tưởng/ vấn đề đó? [4] Cuối cùng là sự suy tư chín kĩ về nghề, say mê và lao động miệt mài với nghề, dũng cảm với nghề, để tránh cho bản thân viết một cách nghiệp dư, chản nản, thối chí hay bế tắc, tiến tới lao động mang tính chuyên nghiệp.

Cả bốn điểm, đại bộ phận nhà văn Việt còn thiếu. 
Ở điểm [3] nhà văn ta lạc hậu, thì khá rõ. Thơ Mới phát tiển phồn thịnh vào đầu thế kỉ, nhưng nó chỉ tiếp nhận trường lãng mạn và hiện thực Pháp của tiền bán thế kỉ XIX! Hậu hiện đại đã nở rộ khắp thế giới ba thập niên qua, hôm nay ở ta nó mới thập thò ngoài cửa! Chỉ so sánh nhà văn ta với nhà văn các nước có nền văn chương tiên tiến cùng thời điểm, mới nhận ra khoảng cách.
Về tư tưởng, Việt chưa có truyền thống, là chuyện khỏi bàn. Nhà văn nữ hôm nay sáng tác trong tinh thần nữ quyền luận, là điều thiên hạ đã múc cạn non trăm năm trước. Chống toàn trị cũng vậy, đầu thế kỉ XX có cả đống nhà văn tài ba phương Tây khai thác và thể hiện rất oách rồi. Nêu vấn đề dân tộc và thời đại, ta cũng có nêu nhưng không sâu đậm, toàn diện và quyết liệt như ở phương Tây. Ta cũng không nâng cấp nó lên giai độ hoàn vũ nữa. Ví dụ: O Pamuk, vấn đề Đông Tây được đặt ra cho đất nước ông, ông còn nâng nó lên tầm vấn đề chung của thế giới hiện đại.

Riêng điểm [2], hầu hết nhà thơ ta chưa thoát khỏi định mệnh một tập, thậm chí một bài, nhà văn thì: một cuốn tiểu thuyết. Rồi tắt. Hoặc có viết nhưng không nhích lên được. Chúng ta luôn nhảy cóc từ vấn đề này sang vấn đề khác, chứ ít khi theo đuổi một tư tưởng đến cùng. Tầm vóc nhà văn còn có một nguyên nhân dễ nhận diện, đó là sự yếu kém ở mục cuối cùng: thiếu tính chuyên nghiệp.
Chuyên nghiệp, ta tự tin làm việc trong bất kì hoàn cảnh nào. Chuyên nghiệp, ta chấp nhận giú mình nơi bóng tối vô danh trong thời gian dài. Ta không sợ cô đơn, không sợ cô độc, cả không sợ cô lập.

Thế nhưng một nhà văn khi viết ít nhiều cũng bị hạn chế, quy định hay được kích thích, khai mở bởi môi trường văn học nhà văn sống.
Tôi đã thử nêu ý này tại Hội nghị Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt tại Hà Nội, ngày 3, 4 & 5-11-2008. Suy tư về nghề của nhà văn ta rất yếu. Bàn tròn văn chương của Ban sáng tác trẻ của Hội Nhà văn Việt năm 2006 được tổ chức khá chuyên nghiệp. Sau kì 7, tôi làm cái sơ kết: Chúng ta được ba thành công nhỏ, nhưng từ đó vỡ ra một thất bại lớn. Ba thành công là: Thành công trong tập hợp đa thành phần, đa xu hướng sáng tác, nhiều lứa tuổi khác nhau với số lượng người tham dự ngày càng tăng để thực sự cùng bàn về văn chương đương đại; đề tài hay tác giả - tác phẩm của Bàn tròn được chọn tự do, vô phân biệt; thành viên thảo luận tự do trong một không khí cởi mở, vô ngại. Là ba điều chưa từng xảy ra trước đó. Nhưng thất bại lớn nhất và duy nhất của Bàn tròn văn chương là chất lượng của ý kiến. Cứ đặt 7 Biên bản Bàn tròn văn chương của Ban sáng tác trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2006 bên cạnh Bốn cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo, sự chênh lệch là rất lớn.

Đó là vật chứng không thể chối cãi về tầm ý thức về nghề của nhà văn nhà thơ hôm nay so với nhóm Sáng Tạo. Trong khi tuổi trung bình của ta gấp rưỡi thế hệ trước ở thời điểm họ thảo luận, và ta đi sau họ đến nửa thế kỉ!
Nhưng Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt vẫn rất bàng quan với Bàn tròn!
Không dừng lại tại đó, cơ quan cấp cao nhất phụ trách tổ chức sáng tác, bồi dưỡng, kết nạp, xét giải thưởng,… đủ loại cho hội viên “chính thống” cũng đang tụt hậu với rất nhiều hiện tượng văn chương đương đại. Văn chương mạng đang phát triển mạnh, phong trào hậu hiện đại cũng thế, nhưng Hội vẫn chưa lần có ý định tổng kết hay làm hội thảo về nó. Cái đang xảy ra ta không lo mà đi lo tổ chức hội thảo tận… Cao Bá Quát. Về quá khứ xa, Viện Văn học làm không hay hơn Hội Nhà văn sao? Trong khi các vấn đề văn học nóng bỏng của hôm nay, ta lại quá ư thờ ơ.

Chớ có than vãn về mặt bằng độc giả phổ thông, ngay độc giả chuyên nghiệp là nhà phê bình hôm nay cũng không theo kịp sáng tác. Khi phong trào Thơ Mới còn chưa kết thúc, Hoài Thanh đã làm xong Thi nhân Việt Nam, vừa bắt mạch đúng tinh thần Thơ Mới và nhất là, vừa rất kịp thời. Trong khi cả ngàn hội viên Hội Nhà văn, đến hôm nay, có ai cầm lên một tác phẩm phê bình mà nói rằng mình nhận diện được khuôn mặt thơ ở một thời đoạn dù ngắn không? Không! Đổi mới và cả hậu đổi mới cũng thế. Nhà phê bình còn chưa có ý tưởng đó nữa, có lẽ? Chúng ta làm đủ thứ tuyển, nhưng nắm bắt để khái quát kịp thời cái đang xảy ra thì, không! Do không kham nối hay do sợ hãi? Đành rằng, với nỗi “dồi dào” và “phong phú đa dạng” các tác giả, trào lưu, khuynh hướng văn chương xuất hiện trên đủ loại phương tiện thông tin, không nhà phê bình nào tự nhận quán xuyến tất cả. Nhưng ít ra người làm phê bình vẫn có thể chọn một/ một vài trào lưu nhất định để làm phê bình. Vậy mà mãi tận hôm nay, giới phê bình Việt vẫn chưa cho ra đời tác phẩm như thế.

Sau cùng - mà chắc chi đã là sau cùng - báo chí chuyên văn học cũng đang khá lạc hậu.
Diễn đàn, chúng ta không thiếu. Tuy nhiên, các tờ báo chuyên văn học của Hội Nhà văn chưa mạnh dạn chấp nhận tiếng nói khác mình hoặc ý tưởng đa chiều. Hội nghị những người viết văn trẻ vừa qua, khá nhiều ý kiến phê phán Văn nghệ trẻ. Theo thông tin lóm được, bạn trẻ tập trung chê Văn nghệ trẻ “không trẻ”, vì báo chỉ chuyên đăng các sáng tác già cỗi, cũ mèm. Đó là một phê phán đúng nhưng thiếu và, không cao tay. Bởi ranh giới cũ/ mới, dở/ hay trong sáng tác, nhất là thể loại thơ thì cực mơ hồ, có bàn đến tận thế cũng không xong.

Đánh giá Văn nghệ trẻ vài năm qua, Nguyễn Quang Thiều dù cố gắng nhỏ nhẹ cũng phải kêu lên một tiếng: “Tôi nghĩ Văn nghệ trẻ đang rời xa đối tượng cơ bản nhất của mình”. Nguyễn Quang Thiều đã không cụ thể. Theo tôi, cái dễ thấy nhất ở tờ báo là nó đã và đang mang vác một thứ thừa và ba cái thiếu. Thừa và thiếu nghiêm trọng.
Thừa: bổn phận của Văn nghệ trẻ có phải dành đến bảy, tám trang báo để đa mang chuyện xã hội hay đánh tiêu cực? Đánh tiêu cực xã hội, Văn nghệ trẻ cạnh tranh nổi với Thanh niên hay Pháp luật chắc? Trong khi báo ta lại đem bỏ chợ đứa con đẻ [nhiệm vụ chính] của mình.
Thiếu: đó là thiếu về sự trình bày lí thuyết, trào lưu văn nghệ đương đại. Trình bày đầy đủ, chính xác với lối nhìn khách quan và nhiều chiều. Để thế hệ nhà văn trẻ của ta bớt đi nỗi lạc hậu tình hình văn chương người thiên hạ.

Thiếu thứ hai là thiếu về giới thiệu các khuôn mặt xuất sắc của văn chương khu vực và thế giới, nhất là các khuôn mặt mới. Để bạn văn trẻ biết mình đang đứng ở đâu trong dòng chảy của văn chương thế giới, tránh sự hợm mình kiểu cóc ngồi góc mâm.
Thiếu thứ ba là Văn nghệ trẻ chưa bao giờ dũng cảm giới thiệu đến nơi đến chốn trào lưu, hiện tượng thơ văn trong nước gây xôn xao [cả thật lẫn giả] dư luận. Để người đọc nhận chân giá trị của các sáng tác đó. Và, nhiều thứ khác nữa.
Kết luận: Ta đang thiếu nhà văn suy nghĩ về nghề một chuyên nghiệp, viết một chuyên nghiệp; môi trường văn học cởi mở ta cũng đang thiếu; thiếu hơn nữa là tinh thần sẵn sàng cho môi trường ấy.
Sài Gòn, 15-11-2008.
 I.R.S.R

(nguồn: TCSH số 238 - 12 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.