Nhà văn Trần Thùy Mai

16:42 01/04/2009
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

Với Trần Thùy Mai “viết để được tồn tại trong những cảnh đời khác, được sống những gì tôi mơ ước, được nói những điều không nói giữa đời thường, là một cách thoát ra khỏi sự hữu hạn của đời người”. Đã mấy chục năm nay chị viết một cách say sưa, lặng lẽ, chăm chỉ, cần mẫn. Những tập truyện ngắn: Bài thơ biển khơi, Cỏ hát, Thị trấn hoa quỳ vàng, Trò chơi cấm, Mưa đời sau, Mưa ở Strasbourg, Một mình ở Tokyo... lần lượt ra đời, khẳng định chỗ đứng của chị trên văn đàn.

Sở trường của Trần Thùy Mai là truyện ngắn. Chị chỉ viết “những gì mình thích, những gì thực sự gắn bó với mình”. Đề tài quen thuộc trong truyện của chị là đề tài tình yêu - một trong những đề tài vĩnh cửu của văn chương nhân loại. Hầu hết những câu chuyện viết về tình yêu của Trần Thùy Mai đều có vị đắng. Cái đẹp và hạnh phúc trong hàng loạt truyện ngắn của chị như Thương nhớ hoàng lan, Gió thiên đường, Đêm tái sinh, Trăng nơi đáy giếng, Cánh cửa thứ chín, Thập tự hoa... đều rất mong manh. Mỗi câu chuyện là một tình khúc buồn, nhẹ nhàng mà sâu lắng. Những tình khúc buồn ấy nhắc nhở mọi người phải biết tận hưởng, phải biết bảo vệ, phải biết nâng niu, trân trọng cái đẹp và hạnh phúc trong cuộc sống. Cốt truyện của Trần Thùy Mai thường đơn giản. Chị tập trung khai thác, thể hiện thế giới nội tâm nhân vật.

Mốt số tác phẩm xuất sắc của chị đã được dựng thành phim như Thập tự hoa, Gió thiên đường, Trăng nơi đáy giếng. Chị cũng đã nhận được nhiều giải thưởng xứng đáng. Các tập truyện ngắn Quỷ trong trăng - giải B, Hội Nhà văn Việt Nam năm 2002, Thập tự hoa - giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2003 của Ủy ban toàn quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Giải thưởng Văn học Cố Đô năm 2004, Một mình ở Tokyo - giải thưởng hàng năm của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế năm 2008. Với một bút lực dồi dào và và một giọng văn trữ tình sâu lắng, tôi tin là Trần Thùy Mai sẽ còn gặt hái nhiều thành công hơn nữa.

     MAI VĂN HOAN giới thiệu


Quỷ trong trăng
                                            Truyện ngắn


(Minh hoạ: Đặng Mậu Tựu)


Nguyệt không đẹp. Mọi nét trên khuôn mặt đều tầm thường, nhưng cả người cô từ đầu đến chân toát lên một vẻ trắng trẻo, mềm mại. Đang đi ngoài nắng nóng ran, vào đến căn chòi lá này, người tôi như dịu xuống khi thấy cô ngồi trong góc, giữa một đoàn thi nhân cổ quái, mỗi người một vẻ.

"Em nghe người ta nói trong hồ Tịnh Tâm có con quỷ. Đàn bà con gái mà vô đây, dễ bị vương lắm, cúng sạch gia tài không hết. Bữa ni anh Tư nài nỉ quá, em mới dám vô đệm đàn cho các anh ngâm thơ".

Tư chồng Nguyệt, râu tóc bồm xồm như một Fakia Ấn Độ, nghe vợ nhắc đến mình, cười rạng rỡ như đứa trẻ. Xem chừng Nguyệt là Quan Âm bồ tát của hắn.

Ngày ấy hồ Tịnh Tâm chưa hoang phế như bây giờ. Vẫn còn một ngôi đền lục giác tuy cũ kỹ nhưng vẫn nguyên lành, trên mặt nước đầy hoa sen. Chếch một bên là túp lều nhỏ của Thìn. Thìn ba mươi hai tuổi, nửa tục nửa tu, được thuê để bảo vệ hồ vì Thìn có võ thiếu lâm. Thìn đa tài, chữ đẹp, biết làm thơ, thích đọc sách thiền. Từ lúc hắn về đây, căn chòi thành tụ điểm để các nghệ sĩ lang thang như chúng tôi nhóm họp. Các nhà thơ dân dã nghèo rớt mồng tơi, chỉ sống nhờ mưa nắng, khí trời và thơ. Một cút rượu đế mệ Năng, mấy dĩa đậu phụng và vài chục con ốc luộc là đủ khơi nguồn thi hứng rồi. Có khi lai láng mãi đến khuya, lại cuốc bộ lên ga, uống với nhau một chén trà đặc, trở về nhìn sương trắng giăng mù trên cây muối rồi quay lại căn lều bên hồ, nằm co quắp bên nhau mà ngủ, sáng dậy thằng này kể cho thằng kia nghe những giấc mơ về sáng.

Từ khi có Nguyệt thỉnh thoảng đến đệm đàn, tôi thường không kể những giấc mơ ra được. Nguyệt xem chừng không có vóc dáng mảnh mai của người đàn tranh, cô có thân hình hơi mập, dáng tròn trĩnh, ức nở. Mỗi khi nhìn Nguyệt tôi thường nghĩ đến những bức tranh thời Phục hưng. Những người đàn bà trong tranh đều có tí khuyết điểm trên thân thể, không hoàn toàn chuẩn về ni tấc, chính vì vậy mà rất gần gũi với cuộc đời. Nguyệt cũng thế, cô có vòng mông hơi lớn, trông nặng nề. Chân cô lại có tật hơi cà nhắc, bước đi khập khiễng lại làm tăng thêm nhược điểm. Vậy mà không hiểu sao, trong mơ tôi thường thấy cô hiện ra từ cái phía khiếm khuyết đáng yêu ấy.

Tư thường nói với tôi, "Tao thích cái chân cà nhắc của Nguyệt, không có nó chắc gì nàng chịu lấy tao". Hắn vừa nói vừa cười hồn nhiên: suốt ngày chạy xe ôm và mơ làm thiên tài. Trong đầu hắn luôn ám ảnh một Bùi Giáng, một Hàn Mặc Tử. Chạy xe ôm mỗi ngày được chục ngàn giao cho vợ mua gạo là đủ, hắn miệt mài la cà với thơ rượu. Cả bọn chúng tôi ai cũng thế, làm cầm chừng đủ sống, không phải vì lười nhưng vì ai cũng thấy cái quan trọng nhất trên đời, đối với chúng tôi, rất khác đối với mọi người. Cả Ngàn Khơi chàng trai thường kiếm sống bằng nghề thổi kèn đám tang. Cả Hoạch với chiếc xích lô cà tàng chỉ chạy mỗi ngày vài chuyến. Cả Thiệp chân cò - chàng sinh viên ra trường không có nhiệm sở, đang còn ăn cơm với cha mẹ và ấp ủ một mối tình vô vọng. Cả Tuấn, anh giáo viên cấp ba giỏi chữ Hán, mê thơ Đường luôn nhận mình là người "hữu tài, vô mệnh". Cả tôi, chàng họa sĩ lận đận bao nhiêu năm chuyên vẽ những bức tranh đồng loạt trên khung để bán cho người phương xa. Không có thơ, đời chúng tôi mất cứu cánh.

Cuối năm con mèo, một nhà thơ lớn từ Bắc vào, chọn mái lều của Thìn làm nơi trú chân. Chúng tôi gọi ông là "Trung niên thi sĩ". Là một người đã nổi tiếng cả nước về thơ ca lẫn cuộc đời bầm dập của mình, ông nhanh chóng được chúng tôi suy tôn làm Tao Đàn Đại Nguyên Súy. Trung niên thi sĩ đóng đô ở xứ Huế thơ mộng dài dài vì mối tình si với một nữ thi sĩ. Nhà thơ đã ngồi lì ở nhà nữ thi sĩ không biết bao nhiêu chiều mưa. Vào chơi những ngôi vườn Huế xanh tươi, ông hái quả ổi, quả khế, quả nào đối với ông cũng là ngọc. Ông lấy bút sắt khắc lên đó những câu thơ tỏ tình, rồi nhờ Tư râu đem đến cho người đẹp. Lúc ấy, nữ sĩ đã xoay xở xin được một lô đất và đang xây nhà, cần gạch ngói, xi măng và sự bảo trợ của các vị chức sắc chứ không cần ổi, khế. Những món quà thơ ngây của trung niên thi sĩ được lãng quên và lăn lóc đâu đó trong căn bếp của nàng. Và cái ông gặt được bao giờ cũng chỉ là những trường ca đầy tuyệt vọng. Dù sao đi nữa, ông là người duy nhất trong chúng tôi có được một điều gì đó để nói và viết về tình yêu. Cả bọn tôi trừ Tư, chưa hề được người đàn bà nào để yên bàn tay trong tay mình. Như tôi... thỉnh thoảng, tôi có biết đàn bà. Những người đàn bà đáng giá ba nghìn một chuyến ở Bến Me hay cửa Ngăn, trong bóng đêm chập choạng. Những cuộc âm dương vội vã ấy chỉ để lại một nỗi mệt mỏi ê chề, một nỗi cảm thương ảo não. Thìn bảo tôi: Thà chết khát, không uống nước bẩn đâu. Hắn lấp kín nỗi thiếu vắng tình yêu bằng cách tập công phu Tây Tạng, một thứ công phu triệt tiêu tình dục. Tôi bảo: "Trái tự nhiên". Thìn cười: "Ông nên đọc thêm về Mật Tông Tây Tạng. Vũ trụ này đầy bí ẩn. Mình tự cho là học nhiều, biết rộng, nhưng cái biết của khoa học chỉ là một tấc so với ngàn thước tâm linh".

Tôi không biết gì về tâm linh. Tôi chỉ là tôi, một xác thân bất toại, không uyên bác và thanh khiết như Thìn, cũng không có được cái giản đơn toại nguyện như Tư râu. Cảnh nhà Tư nghèo, nhưng đầm ấm. Anh chồng vừa làm vừa chơi không bị vợ rầy bao giờ. Nguyệt đi làm ở xí nghiệp thuốc lá. Việc làm có ít, một tuần đi làm, hai tuần phải nghỉ. Thời giờ rảnh, cô thêu áo bỏ chợ. Những ngày hè mát, Tư lấy xe ôm chở vợ và hai đứa con gái sinh đôi đi biển. Nhìn hạnh phúc của họ tôi thèm. Tư cũng râu ria, nhếch nhác, luộm thuộm chẳng kém gì tôi. Hắn chỉ sang trọng nhất đám ở chỗ có vợ.

Bây giờ, Nguyệt đi rồi, thỉnh thoảng tôi vẫn quay lại trên mặt hồ yên ắng này. Ngày hôm ấy, khi ngồi câu bên hồ, ngực tôi tràn ngập một cảm giác khó tả, một điều gì đấy không sao chịu nổi. Hôm nay nhóm thơ không gặp mặt. Trung niên thi sĩ cùng với Thìn đi chơi thôn Vĩ Dạ. Sao Nguyệt lại đến? Nàng lững thững từ ngoài vào, chân tập tễnh, cả thân mình rung rung. Và rồi nàng ngồi xuống, nhặt lấy miếng mồi móc vào lưỡi câu giúp tôi.

- Tư đâu?

- Dẫn hai đứa nhỏ về quê.

- Nguyệt không thêu?

- Không, chợ ế lắm, người ta chưa đặt. Vả lại-Nguyệt cười mơ hồ, nhìn mông lung ra những lá sen ngoài xa-Có nhiều lúc không cầm kim lên nổi.

Tôi làm ra vẻ hiểu biết:

- Nguyệt làm nhiều nên mệt đó, cần nghỉ ngơi.

Nguyệt lắc đầu:

- Không phải mệt. Mà...em chẳng biết nói thế nào. Mà này, anh Tư em cũng có lúc tỏ ra thông minh, anh ấy bảo: Sao lúc nào em cũng như đang đợi. Thế nhưng em, em cũng không biết mình đợi điều gì.

"Giá như có điều gì để chờ..." Nguyệt vừa lẩm bẩm vừa thở dài. Tôi từng đọc đâu đó trong những cuốn truyện tình nhảm nhí rằng: đàn bà con gái ngồi cạnh đàn ông mà thở dài, kêu buồn, kêu lạnh...là muốn khêu gợi tà ý. Tự nhiên tai tôi đỏ lên, tôi liếc nhanh sang Nguyệt. Hình như tôi đã lầm: nàng chẳng mảy may để ý đến tôi sau tiếng thở dài như tiếng gió heo may lướt qua hồ. Tôi nhớ ra mình cũng đã nhiều lần thở dài như thế khi đối diện với càn khôn tĩnh mịch.

"Anh có thấy tức ngực không? Có cái gì đó nặng kinh khủng, nhiều khi muốn vùng lên rứt ra mà không được". Nguyệt hỏi tôi. Tôi ngẩn người, không hiểu nàng muốn nói gì.

Trăng đã lên cao, dội bóng xuống hồ rực rỡ. Tôi lúng túng nói với Nguyệt: "Nguyệt thấy trăng đẹp không, hèn chi thuở trước Lý Bạch ôm trăng mà chết. Hay bây giờ anh nhào xuống hồ, vớt trăng lên cho Nguyệt chơi nghe?" Nguyệt bĩu môi: "Ôm một vầng trăng ảo thì được gì?" Tôi nóng bừng. Câu nói của nàng làm trí tôi giải mã ra muôn nghìn lời giải lung tung. Trong nỗi hoang mang, tôi bất giác xích lại gần Nguyệt. Bộ ngực phập phồng của nàng mẩy tròn chật chội dưới lớp áo. Nhưng nàng chẳng chú ý gì đến tôi. Đôi mắt nàng cứ dạo quanh hụt hẫng như tìm kiếm trên những con đường vắng vẻ trong hồ. Tôi nhìn theo ánh mắt ấy: chỉ thấy lặng lẽ. Khi tôi quay lại thì Nguyệt đã bước đi, trong mắt tôi là cái hình ảnh khiếm khuyết đáng yêu của người đàn bà ân sủng đã đến với hội thơ chân đất điêu linh. Còn lại một mình, tôi nhìn ra hồ và chợt nhận ra cái cảm giác khó tả mà Nguyệt từng cảm thấy: tôi tức ngực, choáng ngợp như có một hòn đá nặng đè lên thân thể.

Bẵng một dạo Nguyệt không đến đàn nữa. Cả bọn đều thấy thiêu thiếu, nhơ nhớ tiếng đàn nhưng không dám nói ra vì thấy vẻ ủ rũ khác thường của Tư. Thơ ca bỗng dưng nhạt phèo. Tôi hỏi trung niên thi sĩ: "Sao, tuần này bác có chấm được câu nào không?" Ông cười cười, lắc chòm râu ngược ngạo: "Thơ tụi bây tuần này giống như hến luộc". Thìn cầm bút lông trầm ngâm trên trang giấy lụa, bỗng chốc như xuất thần, viết thật nhanh hai dòng chữ như bướm bay:

Sớm mai chợt nhớ xuân hồng
Tôi qua ngọn cỏ nghe nồng giọt sương

Tôi ngạc nhiên vì câu thơ không giống giọng thơ của Thìn. "Thơ này lẳng lơ lắm, không phải thơ thiền". Trung niên thi sĩ gạt đi: "Cậu chẳng biết gì. Chính là thiền đấy!"

Tuần sau nữa, không thấy Tư râu. Thiệp chân cò bảo tôi: "Thằng Tư bị vợ hành". Nghe nói tối nào vợ hắn cũng giăng một mớ xô chậu lỉnh kỉnh dưới chân giường rồi đóng chặt cửa buồng, bắt anh chồng ngủ ngoài. Nửa đêm, tưởng vợ ngủ say, Tư thò tay thớn cửa định rút then, không dè Nguyệt phát hiện, lấy dao rẹt ngang một đường, mười ngón tay Tư chảy máu.

Tôi khiếp. Cái cô nàng miệng cười núng nính hóa ra khi đã nổi cơn lại dữ như vậy. Có thể cái buổi ngồi gần tôi hôm nào là nguyên nhân đưa gia đình Nguyệt đến chỗ ấy? Tôi buột miệng nói lên nỗi lo âu của mình. Trung niên thi sĩ phì cười: "Ông lúc nào cũng mơ hồ. Hôm nay ai luộc ốc? Thiệp chân cò nhé? Thìn này, cậu lấy giấy bút ra đi. Câu này của mình, cậu không thể không ghi lại được. Và ông đọc thong thả, mắt nhìn chăm chăm vào người đang viết:

Đêm qua thằng cuội khoèo rơi cái rằm

Một màu đỏ ửng từ mang tai Thìn hiện ra rồi lan xuống cằm, xuống cổ. Hắn chững lại bảo: "Ông giỏi lắm. Nhưng cho tôi chữa lại một chữ. "Đêm nao, thằng cuội khoèo rơi cái rằm". Đêm qua, vẫn còn xác định, mà đây là chuyện tình cờ, vô định, nảy sinh từ nhân duyên". "Giỏi! vậy viết nữa đi!". Trung niên thi sĩ bảo. Tôi cáu: "Các ông coi thường bọn này vừa vừa chứ. Nói chi mà y như hũ nút".

Tối đó, tan cuộc, tôi ghé qua nhà Tư râu, thấy Nguyệt đang xếp dọn áo quần trong tủ. Mặt cô bị ai đánh không rõ, sưng lên từng mảng tím tái.

Ba hôm sau, tôi nghe tin Nguyệt đã trốn đi, cả Thìn cũng biến mất. Đúng là tôi lúc nào cũng mơ hồ. Cả đời, tôi chưa từng chạm tới một điều gì có thật. Tôi ra về trong tiếng ễnh ương ran lên trên hồ. Hồ Tịnh Tâm, mà sao tâm tôi không tịnh?

Ít lâu sau Tư râu phát điên, khoác bao tải đi trên đường, miệng vẫn luôn lẩm nhẩm đọc thơ. Kỳ lạ thay, những vần thơ hắn đọc bây giờ lại sắc sảo hơn. Có lần gặp hắn, tôi chặn lại chìa cho điếu thuốc. "Đi đâu, Tư?". Hắn cười, vẫn cái cười thơ ngây trên khuôn mặt đẹp trai lem luốc. "Ta đi tìm Phật trong ma, tìm thánh trong quỷ, tìm ta trong mình". Tôi muốn khóc. "Tư ơi, thơ tỉnh thế, sao mày lại điên?" Tư gật đầu "Em bỏ ta, ta bỗng hóa thiên tài. Ông không biết à? Những thiên tài đều điên loạn". Tôi trở về, kể lại với trung niên thi sĩ. Ông nhét thuốc lào vào điếu, ủ rũ: "Không phải bây giờ thằng Tư mới điên. Nó đã điên từ cái lúc đưa vợ đến chòi thơ này. Một cái ao tù chỉ chờ dịp để nổi sóng".

Một ngày cuối năm, trung niên thi sĩ rời chúng tôi quay về đất Bắc. Cô nàng nữ sĩ chân giày đã bảo "Một nhà thơ danh tiếng như anh mà lại để chòm râu trước ngực, tóc phủ quá tai, với bộ bà ba vải thô và cái bị lát, trông chán lắm". Thế là nàng chỉ chấp nhận ông vào thế giới của nàng nếu ông chịu cạo râu, hớt tóc, mặc âu phục và thắt cravate cho xứng với tài năng của mình và vị trí của nàng trong xã hội. Điều này quá dễ, nhưng xúc phạm đến lòng tự trọng của trung niên thi sĩ. "Màu cờ sắc áo của mình, không thể bỏ đi dù là trước tình yêu hay cái chết." Sau khi hoàn tất một trường ca ràn rụa máu tươi, ông ra đi, và hội thơ cũng tan. Mùa thu năm ấy một cơn bão đã giật đổ mái đình lục giác và cuốn bay luôn cả căn chòi. "Đêm nao thằng cuội khoèo rơi cái rằm", câu thơ của trung niên thi sĩ vẫn còn trên vách cho đến khi căn chòi thơ tiêu tan trong gió.

Tháng sáu năm nay, đêm rằm, tôi và mấy người bạn thơ còn sót lại bỗng nảy ra ý quay lại hồ xưa. Chẳng còn gì, ngoài hoa sen tàn sắp hết. Trăng chiếu trên những mô đất cũ, và cây lá xì xào, gợi nhớ tới những bóng người thuở trước.

Giờ đây quanh cút rượu chỉ còn tôi, Hoạch xích lô và Ngàn Khơi. Tuấn, chàng giáo viên giỏi chữ Hán lâu nay không làm câu đối nữa. Các trường bán công mở ra nhiều cho nên quanh năm chàng bận rộn dạy giờ và phải đi nhậu với đồng nghiệp. Thi thoảng gặp tụi tôi hắn ngồi nhâm nhi không quá một ly, dúi cho một ít tiền rồi vội vã đi. Thiệp đã vào Nam tìm kế sinh nhai. Hoạch xích lô băn khoăn: "Chân cò tay nhện như hắn, vô Sài Gòn làm chi để sống?" Tôi lặng yên, nhớ lại khuôn mặt thư sinh xanh rớt. Ngày ấy cũng như tôi hắn có nghĩ gì đến cơm cháo đời thường, chỉ mong cuối tuần có thơ được lọt mắt xanh của Tao Đàn Đại Nguyên Súy.

Trung niên thi sĩ đã chết. Ông bị xơ gan cổ trướng. Lúc sắp mất, ông viết thư cho tôi: "Anh khuyên em nên bớt rượu chè". Lời khuyên đã muộn, từ lâu tôi chỉ còn lạc thú là rượu. Rượu thấm đẫm linh hồn và thể xác tôi đến nỗi không còn gì dẫn dụ tôi được nữa, kể cả những người đàn bà giá ba nghìn ở Bến Me nay cũng chỉ còn là những hạt bụi hổ nhục xa mờ trong ký ức.

"Còn Thìn với con Nguyệt, có tin tức chi không?" Tôi thu hết can đảm để nhắc tới hai cái tên lâu nay không ai còn đá động đến nữa. Hoạch xích lô cười như thở hắt ra.

- Nghe đâu đang cuốc rẫy ở một nơi nào đó xa tít mù thuộc Bà Rịa.

Tôi nghĩ đến một miền đất xa xôi nắng như thiêu, nhớ cái vẻ cười núng nính của Nguyệt, cái dáng người khiếm khuyết đáng yêu của cô, bây giờ có lẽ đã héo tàn dưới những cơn hạn lửa của năm này. "Chẳng biết chúng nó có hạnh phúc không?".

"Hạnh phúc cái con khỉ!" Ngàn Khơi đáp, hậm hực. "Sao trời lại cho nó đi mãi, không quay về để nhìn thấy thằng Tư, rách rưới lang thang như một linh hồn vất vưởng. Hai đứa con thì cạo đầu làm tiểu nơi một ngôi chùa xa tít. Mà đổi lại gì? Bỏ một anh thi sĩ chân đất, lại theo một anh chân đất thi sĩ. Bỏ một xứ hiu hắt, lại đến một nơi hắt hiu. Thật không thể nào hiểu nổi!"

Tôi cúi đầu, thinh lặng. Hoạch xích lô ngáp dài, phán một câu triết lý:

- Người ta bảo trên đời có hai bi kịch. Một là không đạt được ước mơ, hai là đạt được nó.

Tôi không nói gì. Ừ, Thìn ơi, cái vầng trăng mà đêm nao mày khoèo rơi xuống nay hẳn có lúc mày phải tiếc nuối sao không để mãi trên cõi trời thăng hoa. Nhưng những ý nghĩ ấy có đúng không, khi tôi cũng như Hoạch và Ngàn Khơi không phải là Thìn, không phải là Nguyệt. Và lẽ nào ba chúng tôi, những người đang ngồi ngáp ở một góc hồ này, lại là những người hạnh phúc?

Rượu hết, Hoạch và Ngàn Khơi nằm phơi bụng, ngủ quên dưới trăng. Tôi một mình trở về. Uống rượu bây giờ không khí thế như năm xưa nữa rồi. Trước mặt tôi, con đường xuyên qua hồ sáng loáng, tiếng dế ran lên, dội âm âm trên mặt nước. Trăng mũm mĩm làm tôi khát sống vô bờ bến. Nhưng đã muộn. Cả vầng trăng và chú Cuội đang tận cùng trong hành trình vô vọng, Tư râu đang tận cùng trong cõi điên rồ, còn tôi, tôi không có gì đến cùng cả, tôi lửng lơ giữa hai đầu sinh diệt. Thơ ơi, thơ có cứu rỗi đời tôi không?

Không phải là lần đầu, nhưng đây là lúc tôi thấy rõ nhất cái nặng khủng khiếp của trống rỗng và hiu quạnh. Tôi tức ngực, choáng ngợp như có cái gì đè nặng lên thân thể. Tôi biết, Nguyệt đã đi vì không chịu nổi cảm giác ấy: sức nặng của một vùng đời hoang vắng luôn chờ bão tới.

Tiếng chân tôi gõ trên đường trăng, và những tiếng vang nghe rờn rợn như có bàn chân ai đó bước sau lưng. Tôi rùng mình, chợt hiểu vì sao người ta bảo rằng những nơi hoang vu thường có quỷ.
1999

T.T.M
(241/03-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.