Nhà văn Sơn Nam nghèo mà sang

16:49 30/09/2008
NGUYỄN QUANG SÁNG“Cách đây ba năm tôi có viết về nhà văn Sơn , chớ không phải khi nghe tin anh đi xa rồi, tôi mới nghĩ đến anh. Tôi viết về anh lúc anh còn khoẻ mạnh và minh mẫn. Anh đã đọc, gật đầu, cười…”.

Hai mươi mốt năm (1954-1975) gặp lại nhà văn Sơn giữa Sài Gòn, câu đầu tiên tôi hỏi anh:
- Anh chạy xe đạp, xe máy được chưa?
Anh cười hề:
- Vẫn đi bộ!
Và từ đó đến nay, nhà văn Sơn vẫn đi bộ. Anh không nói với tôi vì sao anh thích đi bộ. Nhưng tôi có một người bạn cũng thích đi bộ, anh bạn nói: đi bộ thấy, nghe chuyện đời nhiều hơn, sâu hơn. Đúng vậy!
Ngày đầu giải phóng, có một số bạn không hiểu vì sao, một nhà văn ở R (Nguyễn Quang Sáng) và nhà văn Sơn Nam sống trong đô thị Sài Gòn lại có những câu đối đáp thân tình như vậy?

Năm 1950, tôi và nhà văn Sơn cùng làm việc trong phòng chính trị Phân Liên Khu Miền Tây bộ. Phòng chính trị có hai ban: Ban Tuyên huấn và Ban Địch ngụy vận. Trong Ban Tuyên huấn có một tiểu ban văn nghệ, gồm có nhiều văn nghệ sĩ. Trong số đó có ca sĩ Quốc Hương, nhà thơ Hoàng Tấn, Hoàng Phố (gọi đùa là ông Hai Hoàng), nhà văn Thái Bạch và nhà văn Sơn . Năm ấy, nhà văn Sơn lấy bút danh là Phạm Anh Tài (giấy khai sanh là Phạm Anh Tày). Tôi là người của Ban Địch ngụy vận, cơ quan chuyên nghiên cứu và theo dõi các sắc lính của quân đội Pháp và các tôn giáo. Tôi là cán bộ nghiên cứu, chả biết gì về văn chương. Hai cơ quan thường đóng quân trên một dòng kinh, tới lui qua lại thường gặp nhau.

Trong số văn nghệ sĩ ấy, người oai vệ nhất là ca sĩ Quốc Hương, lúc nào quân phục cũng chỉnh tề, cây súng ngắn đeo xề xệ đến tận gối, còn Phạm Anh Tài thì lang thang lếch thếch. Mấy bộ bà ba màu cháo lòng vừa cũ vừa nhàu nát. Thấy hết ham! Nhưng tôi nể tài văn chương qua hai truyện ngắn: “Cù lao dung” và “Tây đầu đỏ” của anh mà tôi được đọc. Anh ít khi ở cơ quan lâu ngày. Mới thấy anh đó thì ngày mai anh đã đi rồi. Anh về các làng của miền Tây, mỗi lần anh về, anh kể không biết bao nhiêu chuyện, kể liên miên. Nhiều chuyện lạ về đời sống của rừng. Qua chuyện của anh, tôi đoán là anh đi khắp cả rừng U Minh. Tôi nể anh hơn khi được biết anh là tỉnh uỷ viên dự khuyết của tỉnh Rạch Giá, không hiểu sao anh từ bỏ cương vị lãnh đạo tỉnh mà dấn thân vào con đường văn chương? Miền Tây bộ là miền sông nước, phương tiện đi lại là xuồng ghe. Xuồng ghe cơ quan cấp cho tuỳ theo cấp bậc. Cán bộ cao cấp thì đi ghe có mui bốn chèo. Lái hai chèo, mũi hai chèo, tức là hai giao liên. Dưới đó một cấp thì cũng ghe mui, nhưng chỉ có hai chèo, nếu không có mui thì hai mái lá che nắng, che mưa, cán bộ dưới nữa thì cơ quan cấp cho một chiếc tự chèo lấy, và dưới nữa nếu gặp chuyến thì theo giao liên còn không thì quá giang xuồng ghe của thương hồ. Ở cương vị cán bộ lãnh đạo như anh, anh phải đi trên chiếc xuồng hai chèo hoặc có mui hoặc có rèm. Là nhà văn, đi đâu anh cũng quá giang theo xuồng ghe của thương hồ. Anh đi sông lớn, sông nhỏ, theo kinh theo rạch, anh đi khắp cả sông nước miền Tây.

Chiến dịch Long Châu Hà năm 1950, một số văn nghệ sĩ và cán bộ các phòng ban cùng hành quân theo bộ đội. Qua sông, qua đồn bót địch, qua các cánh đồng, thọc sâu vào vùng địch. Trên đường hành quân, tôi nghe ca sĩ Quốc Hương, gặp nhà văn Phạm Anh Tài, nghe nhà thơ Vũ Anh Khanh đọc thơ…
Có một lần, tôi với anh cùng một chuyến đi, hai người một chiếc xuồng, tự chèo lấy, đi từ Rạch Ráng Cà Mau về huyện Tân Biên Rạch Giá. Xô xuồng ra đi từ buổi chiều. Đường dài như vậy thì phải thay nhau chèo. Tôi chèo, anh kể chuyện cho tôi nghe. Vừa kể chuyện vừa tự mình tranh luận với mình, anh đưa một giả thuyết sai trái trong văn chương, trong nghệ thuật rồi anh đập lại, nghe thật sướng tai. Nếu anh chèo thay, tôi nghỉ thì ai nói chuyện, nghĩ vậy nên tôi tự nguyện chèo suốt đêm để nghe chuyện của anh. Tuổi 20 tôi chèo xuồng suốt đêm là chuyện thường.

Sau chuyến đi ấy, bẵng đi rất lâu không gặp anh . Năm 1954, những ngày chuẩn bị tập kết thì anh về cơ quan để nhận quyết định đi hay ở. Anh ở cùng một xóm với tôi thuộc làng Phó Sinh. Anh được quyết định ở lại, còn tôi thì trên chưa quyết định đi hay ở. Anh yên phận là ở lại, nhưng ở lại thì ở đâu, anh nấn ná vài hôm để chờ. Bất ngờ, trên cho anh biết, Trung ương điện vào, anh phải ra Trung ương, nghĩa là tập kết ra Bắc. Anh nói với tôi:
- Tao không đi. Mày còn nhỏ, nếu trên cho đi thì đi, ra ngoài đó học tập (năm ấy tôi 22 tuổi).
Tôi hỏi:
- Ở lại, anh ở đâu?
- Sài Gòn.
Năm 1945, 13 tuổi, tôi có dịp lên Sài Gòn. Sài Gòn xe cộ quá chừng, tôi hỏi anh:
- Lên Sài Gòn, anh không biết chạy xe, làm sao sống?
Anh cười hề hề:
- …Đi bộ, lo gì.

Ấy là buổi chiều bên bờ kinh Phó Sinh, xuồng ghe thương hồ qua lại nườm nượp. Sáng hôm sau, không thấy anh đâu, vậy là tối hôm qua, anh ngoắc một chiếc ghe nào đó, quá giang đi rồi!
Tôi không nhớ năm nào, chắc cũng đã mười năm, Hà Nội có đại hội nhà văn trẻ, đại hội mời các nhà văn lão thành, trong đó có nhà văn Tô Hoài và nhà văn Sơn Nam. Là đại hội nhà văn trẻ, nhưng bài phát biểu hay nhất, ấn tượng nhất là bài phát biểu của hai nhà văn lão thành: Tô Hoài và Sơn . Nhà văn Sơn Nam phát biểu:
- Là nhà văn thì phải chấp nhận nghèo, nếu viết văn để làm giàu, thì ở Sài Gòn, dân Chợ Lớn làm hết rồi, không tới mình đâu!
Đại hội nhà văn trẻ bùng lên tiếng hoan hô. Đó là triết lý sống của anh! Có một lần anh đến Hội Nhà văn Thành phố, anh than đang túng, với tư cách là Tổng Thư ký Hội Nhà văn Thành phố, tôi đề nghị văn phòng chi cho anh hai trăm đồng. Cầm hai trăm đồng, với cái tánh hài hước của anh, anh cười hề:
- Cám ơn Hội, cám ơn mày. Khi tao chết Hội khỏi phải đi vòng hoa! - Nói vậy rồi anh te te ra đường.
Nhà văn Sơn nghèo nhưng lại rất sang. Cái tên Sơn là cái tên sang trọng trong làng văn của nước nhà.
N.Q.S

(nguồn: TCSH số 235 - 9 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THANH THẢOLTS: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã về Huế. Có thể nói đấy là một sự kiện - một sự kiện trang nghiêm lặng lẽ.Là người có căn lành, cuộc trở về của ông dường như mãn vẹn. Ông đã trở về với nơi xuất phát, trở về với “ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, trở về với tư cách một công dân thi sĩ.Sông Hương có nhã ý “cập nhật” ông từ đầu nhưng qua dò ướm, biết ông chưa muốn, Sông Hương đành để các báo bạn “post” trước.Mặc dầu “truy cập” sau nhưng Sông Hương với ông, với người Tổng Biên tập đầu tiên - Tổng Biên tập sáng lập hẳn còn nhiều duyên nợ, dài dài...

  • THANH THẢO“gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còngvề sông ăn cá về đồng ăn cua”

  • NGUYỄN KHẮC PHÊCó lẽ trong các loại tổ chức hội đoàn, tổ chức các Chi hội nhà văn (thuộc Hội Nhà văn Việt Nam) là ít họp hành nhất; trong đó Chi hội ở Thừa Thiên Huế hẳn được xếp “đầu bảng” về “thành tích” này.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHĐêm hè từ 7 giờ tối tới 7 giờ sáng. 12 giờ liên tục nhận những cái rùng mình trong toa máy lạnh ghế mềm chuyến tầu xuyên Việt. 9 giờ sáng xuống Huế. Cơn mưa rớt bão Chanchu đã tạnh. Nắng Huế nhức đầu. Khách sạn Duy Tân. Nằm đọc Tạp chí sông Hương.

  • Gắn liền với 700 năm Thuận Hoá - Phú Xuân, 700 năm thơ Huế là tập thơ do Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh, Hội Nhà văn TT-Huế phối hợp thực hiện và sẽ ra mắt bạn đọc trong thời gian đến. Đây sẽ là tập thơ có bề dày và cũng là tập thơ đầu tiên khái quát một chiều dài với một diễn trình lịch sử thơ ca của vùng đất TT-Huế.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤNNhà thơ Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế; hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT Bình Định. Thơ in trong nhiều tuyển tập trong và ngoài nước nhưng chỉ có một tập riêng “Viết dưới bóng quê nhà” (NXB Hội Nhà văn - 2008).

  • NGỰ VIÊNLTS: Văn học trẻ Huế hiện nay như thế nào? Các tác giả trẻ đang ở đâu? Tại sao đã nhiều năm nay, không có một hội viên mới nào của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế ở độ tuổi thậm chí U40? Đâu rồi, một sân chơi văn học vốn là niềm tự hào một thời của những cây bút trẻ Huế?... Một thực tế đầy bức xúc đã khiến những người có trách nhiệm không thể tiếp tục ngồi yên. Cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” do Tạp chí Sông Hương và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức vào sáng chủ nhật 12/10 vừa qua, nói như nhà văn Tô Nhuận Vỹ, “lẽ ra phải được tổ chức từ lâu”…

  • BỬU NAM* Để tưởng nhớ Trịnh Công Sơn và Ngô Kha1. Buổi chiều nắng vàng rực trên tàn cây xanh. Hình như có một con chim nhỏ nào đó đang líu lo trong lùm cây trên cao.

  • NGUYỄN THỤY KHA1. BÁC CẢ KHOÁTNhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát sinh năm Canh Tuất 1910 - năm Tuất đầu tiên của thế kỷ XX. Bởi vậy, bác mang bản mệnh Dương Thoa Xuyên Kim (vàng trang sức).

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN thực hiệnNhạc sĩ Phạm Duy sinh trưởng ở Hà Nội (5.10.1921), một thời gian dài sinh sống ở miền Nam và nước ngoài, tác phẩm của ông gắn bó với nhiều địa phương trong cả nước. Do hoàn cảnh lịch sử, ông đã có những quan hệ đặc biệt với Huế, với vùng núi Ngự sông Hương.

  • NGÔ MINHTrên hành trình văn chương thăm thẳm, mỗi nhà văn đều có một lối khởi hành riêng. Đối với nhà văn trẻ Văn Cầm Hải, con đường đó bắt đầu từ sự lựa chọn đầy nghị lực: Anh không ăn bóng một thời đã đi qua. Câu thơ Hải viết về Apolinaire như một tuyên ngôn của mình! Quen thân Văn Cầm Hải hơn 10 năm nay, tôi thấy chàng trai trẻ này là một mẫu thanh niên hiện đại trong suy nghĩ và sáng tạo nghệ thuật, ham học hỏi, có chí tiến thủ, không bao giờ bỏ phí thời gian vào những say mê vô bổ.

  • LGT: Nhà văn, nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 30-8-1966, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Trưởng phòng chương trình Đài PTTH TT.Huế, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp VHNT TT.Huế, ủy viên thường trực Hội Nhà văn TT.Huế, Trưởng ban Biên tập TCSH, Thư ký Chi hội Nhà báo TCSH đã đột ngột qua đời ngày 16 -12-2006 tại Huế. Thương tiếc anh và thể theo nguyện vọng của bạn hữu, đồng nghiệp, Sông Hương xin dành số trang đáng kể đăng điếu văn của Hội Liên hiệp VHNT cùng các bài viết viếng, tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.Nguyễn Khắc Thạch - Lê Văn Phương - Lê Huỳnh Lâm - Trần Tuấn - Nguyễn Trương Khánh Thi - Hồ Thế Hà - Trần Hạ Tháp - Đào Đức Tuấn - Tỷ Em - Ngô Minh - Lãng Hiển Xuân - Phạm Thị Anh Nga - Hồ Đắc Thiếu Anh - Nguyên Quân - Đinh Thu - Nhất Lâm - Ngô Cang - Ngàn Thương - Lê Ngã Lễ

  • NGÔ MINHDịp sát Tết Đinh Hợi, thoáng thấy tôi trên đường Lê Lợi, anh Ngọc Tranh ra hiệu dừng xe rồi nhanh nhẹn mở tờ báo  Tuổi Trẻ ra, nheo nheo con mắt cười hồ hởi: “Mình làm Trò chơi mà được Trời cho, ông thấy ngon không?”. Thì ra, báo Tuổi Trẻ ra ngày 13-2-2007, tức ngày 26 Tết, đưa tin Liên hoan hài kịch Xuân 2007 của Thành phố Hồ Chí Minh vừa kết thúc tại sân khấu nhạc nước Đầm Sen, nhóm Hoàng Sơn được giải nhất với vở hài kịch ngắn Trời cho.

  • MAI VYNhạc sĩ Trần Hữu Pháp sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho giáo nghèo tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Từ năm 1946, Trần Hữu Pháp thoát ly gia đình phục vụ cách mạng. Trong sáu mươi năm, anh đã gắn bó với nhiều vùng đất của Tổ quốc.

  • TRẦN ĐƯƠNGCuối năm 1973, đầu năm 1974, khi bắt đầu tiến hành tuyển chọn và dịch thơ của Tố Hữu ra tiếng Đức, tôi có gửi tới nhà thơ danh mục những bài cần dịch và xin ông cho ý kiến.

  • Sức sống của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau cơn bạo bệnh là một niềm vui cho làng văn học Việt . Trong những ngày tháng điều trị, những trang viết của ông không vì thế “đóng cửa” mà nhiều khi lại thăng hoa vì đây là khoảng thời gian đúc kết của một chuỗi dài “ham chơi”, một thời đã từng lên rừng xuống bể, vào Nam ra Bắc với biết bao “Miền gái đẹp”... Không bao giờ dừng bước -  Đó cũng là cốt cách của nhà văn gốc Bích Khê, Quảng Trị này.

  • NGÔ MINHLTS: Giáo sư Lê Quang Vịnh, người trí thức Sài Gòn yêu nước bị toà án binh đặc biệt của Chính quyền Sài Gòn kết án tử hình năm 1962 và đày ra Côn Đảo biệt giam trong chuồng cọp, hầm đá, bị khổ sai suốt 14 năm ròng, từ năm 1962 - 1975. Cuộc đời và nhân cách, ý chí kiên cường của người tử tù nổi tiếng này là một pho truyện lạ lùng và hấp dẫn. Nhà thơ Ngô Minh vừa hoàn thành bản thảo tập ký sự “Chuyện tử tù Lê Quang Vịnh”. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc chương nói về những mối tình nước mắt của Lê Quang Vịnh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, trước khi bị án tử hình.

  • HOÀNG VŨ THUẬT

  • Sinh ngày 02 tháng 8 năm 1962 tại Cao Lãnh, Đồng ThápTốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du (khoá III).Hiện công tác ở Báo Tuổi Trẻ, thành phố Hồ Chí MinhHội viên Hội Nhà văn Việt NamBài “copy” sau đây là cuộc trò chuyện giữa nhà thơ Thu Nguyệt và nhà báo Diễm Chi, đăng trên báo Phụ nữ chủ nhật thành phố Hồ Chí Minh.http://thunguyetvn.com

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNLTS: Cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một cuộc tập kích chiến lược. Thắng lợi của cuộc tập kích ấy buộc Đế quốc Mỹ giữa lúc có đông quân nhất ở Việt Nam, hy vọng sẽ chiến thắng bằng quân sự phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn hoà đàm mở đầu cho thời kỳ thất bại của Mỹ dẫn đến chỗ Mỹ phải rút chạy khỏi miền Nam Việt Nam.