TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.
Không phải bất cứ ai hoạt động và sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa đều là nhà văn hóa, mà chỉ được thừa nhận là nhà văn hóa nếu chủ thể hoạt động và sáng tạo đó vươn tới tầm cao của tri thức văn hóa, khoa học... ở thời đại, để từ đó sáng tạo ra những giá trị văn hóa đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nền văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh vượt lên trên những tiêu chí đó để xứng đáng là nhà văn hóa lớn của thế giới.
Trong Nghị quyết Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24, khi phong tặng Hồ Chí Minh danh hiệu kép “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn” (Vietnamese hero of national liberation anh great man of culture - nguyên văn bản dịch tiếng Anh), UNESCO đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất của sự khẳng định dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, sự đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam với lịch sử hàng nghìn năm, và những lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được thừa nhận là nhà văn hóa lớn vì trước hết Người đã khởi xướng phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc thuộc địa, giành lại độc lập tự do cho các dân tộc bị bóc lột, phấn đấu vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn người. Đó không phải chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà còn là một sự nghiệp văn hóa cao cả. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, lấy đó làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Người là kiến trúc sư vĩ đại của công cuộc cải cách và xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam, tạo ra một cách nhìn mới, một thế giới quan mới, tạo lập một ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật mới...
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã khơi mở các tiềm năng tinh thần truyền thống Việt Nam, định hướng cho sự ra đời một nền văn hóa mới, một xã hội nhân cách mới. Người là kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người đã đưa nền văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới và khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc mình trước thế giới cũng như góp phần đưa văn hóa Việt Nam giao lưu, hòa nhập với văn hóa thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc, cốt cách văn hóa của dân tộc mình đã hình thành từ những năm 20 của thế kỷ XX. Năm 1924, khi đến thăm triển lãm nghệ thuật tổ chức tại Matxcơva, Người đã nhấn mạnh “mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính dân tộc của mình trong văn hóa nghệ thuật”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng trong việc “thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau” giữa các dân tộc mà trước hết là hiểu biết về văn hóa. Đây chính là những chủ trương về văn hóa của các dân tộc cũng như của UNESCO trong xu thế giao lưu, hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại, thể hiện một cách tiêu biểu và nổi bật sự kết hợp giữa những giá trị nhân văn của dân tộc, những đạo lý của con người Việt Nam với chủ nghĩa Mác-Lênin, chân lý của thời đại và tinh hoa văn hóa nhân loại bao gồm cổ, kim, Đông, Tây. Tư tưởng của Người về văn hóa thể hiện ở ý thức rõ ràng của Người về bản sắc và giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Người xác định càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, càng phải coi trọng truyền thống tốt đẹp của cha ông (2). Người giáo dục nhân dân: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”(3).
Với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại. Sinh thời, Người đã thẳng thắn khước từ mọi danh hiệu làm văn hóa - nghệ thuật mà mọi người thường gắn cho mình. Đúng là người không chú tâm làm nghệ thuật nhưng sự nghiệp cầm bút vì cách mạng của Người đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn hóa “vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, vô cùng cao thượng và phong phú” như chính cuộc đời của Người. Thơ Hồ Chí Minh phần lớn là những bài thơ “đuổi giặc”, bài nào cũng có thể tìm thấy ở đó một ý nghĩa chính trị nhất định, song không bài nào vắng bóng con người. Khát vọng tự do công lý, ấm no, hạnh phúc, hòa bình..., sự cổ vũ cho cái đẹp và mối quan hệ nhân văn giữa người với người, đó là một nội dung chủ đạo trong thơ Hồ Chí Minh. Vì vậy, những bài thơ của Người, trong đó có một số bài ra đời trong cảnh ngộ oái oăm đã trở thành “thơ của muôn đời” bởi giá trị nhân văn cao quý, tỏa sáng từ một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Hồ Chí Minh là nhà văn lớn, và là người mở đầu và đặt nền móng cho nền văn xuôi cách mạng Việt Nam. Người đã tìm tòi, thử bút trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, du ký, truyện viễn tưởng, truyện ngắn, truyện ký, kịch, văn chính luận... và ở lĩnh vực nào Người cũng đạt được thành tựu. Người đã đem lại cho văn chương cách mạng nước ta những yếu tố rất hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là bậc thầy của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Ngòi bút của Người đã tung hoành trên mặt trận báo chí, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Chính Người đã sáng lập và là linh hồn của nhiều tờ báo vô sản đầu tiên trong lịch sử báo chí nước ta và trên thế giới, trước hết là tờ báo Người cùng khổ ở Pháp, tờ Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Việt Nam độc lập ở Trung Quốc và Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất bởi Người là mẫu mực của tinh thần hợp dung văn hóa. Người nhắc nhở phải giữ gìn, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng không tự bó mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thiển cận mà kêu gọi phải ra sức nghiên cứu học tập tinh hoa văn hóa của thế giới xưa và nay. Người còn là hiện thân của văn hóa hòa bình, của đường lối ngoại giao hòa bình, luôn luôn chủ trương giải quyết mọi xung đột bằng thương lượng, đối thoại với thái độ hiểu biết và nhân nhượng lẫn nhau. Ngay từ năm 1947, Người đã khẳng định phương hướng đối ngoại của nước ta là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(4).
Là nhà văn hóa lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên trước nhân loại tấm gương của một con người luôn luôn vươn tới đỉnh cao của văn hóa. Tiêu biểu cho những giá trị đỉnh cao của Người khi trở thành nhà văn hóa lớn phát triển về nhiều mặt: Về mặt trí tuệ, Người là nhà văn hóa uyên bác cả Đông, Tây, kim, cổ, thể hiện tài năng trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa… Về mặt tình cảm, Người mang một “trái tim mênh mông”, “ôm cả non sông vạn kiếp người”. Người thương yêu nhân dân mình và thương yêu cả nhân dân thế giới, lo lắng đến vận mệnh cả nhân loại và quan tâm đến số phận của từng con người. Về mặt hành động, Người là anh hùng kết hợp cả Nhân, Trí, Dũng, nổi lên ở một nghị lực phi thường và một đầu óc vô cùng nhạy bén và sáng tạo. Về tư tưởng triết học, ở phương Tây, Người tiếp thu truyền thống nhân văn từ cổ Hy - La đến Mác-Lênin, đem lại cho truyền thống nhân văn tính hiện thực và tính chiến đấu. Ở phương Đông, Người gạn đục khơi trong, tiếp thu mọi nhân tố tích cực của cả Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo. Trong đời sống riêng tư, Người vừa theo đuổi những hoài bão lớn nhất, vừa sống một cuộc sống giản dị và bình thường về nhu cầu vật chất nhưng lại vô cùng phong phú về tinh thần. Người là chiến sĩ đồng thời là nghệ sĩ, là anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa. Trong những ngày căng thẳng nhất trước công cuộc kháng chiến và kiến quốc, Người luôn thể hiện một sự hài hòa hiếm có: gần gũi với thiên nhiên, gắn bó với xã hội và tu dưỡng bản thân.
Có thể khẳng định nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hóa mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là những giá trị đóng góp vào sự phát triển của văn hóa thế giới. Nhiều chủ trương văn hóa được Người đề ra rất sớm - từ giữa những năm 40 và 50 của thế kỷ XX như: xóa mù chữ, trồng cây phủ xanh đồi trọc, cải tạo môi trường sinh thái… đến đầu những năm 90 đã được Liên hợp quốc đề lên thành những cuộc vận động lớn trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh cho thấy rõ vị trí và ý nghĩa của văn hóa ứng xử. Người đã từng nói một cách vắn tắt: “Chúng ta sống trong thời vẻ vang thì phải sống cho xứng đáng”.
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được UNESCO tôn vinh danh hiệu anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn. Nhà văn Xôviết Ôxips Manđenxtam, từ năm 1923 đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(5). Đó là nền văn hóa thống nhất giữa văn hóa với cách mạng. Bởi vì, bản thân cách mạng cũng là một sự nghiệp văn hóa, nó biểu hiện trọn vẹn một thiên hướng và khả năng sáng tạo, chứng minh và đòi hỏi chúng ta một niềm tin sâu sắc ở tương lai, như nhà văn hóa lớn Côlômbia là Marquez, người được giải thưởng Nobel, tại cuộc gặp lần thứ hai các nhà trí thức Mỹ Latinh, đầu tháng 12-1985, đã phát biểu. Nền văn hóa đó kết hợp truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, phương Đông và phương Tây, thể hiện lý tưởng chung của loài người là độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhân loại đã thấy ở Hồ Chí Minh biểu tượng của nhà văn hóa tương lai. Nhân loại đã thấy ở Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng lớn, nhà lý luận mà còn thấy ở Người một mẫu mực của con người phát triển toàn diện. Sự nghiệp và phong cách văn hóa Hồ Chí Minh như là một trong những dòng chủ lưu đã và đang hòa mình vào dòng chảy của văn hóa thời đại.
T.N.H
(SH288/02-13)
-----------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
(3) GS.PTS. Đỗ Huy, Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997.
(4) PGS. TS Đinh Xuân Lý - PGS.TS Phạm Ngọc Anh, Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008.
(5) Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội,1985.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.