TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.
Không phải bất cứ ai hoạt động và sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa đều là nhà văn hóa, mà chỉ được thừa nhận là nhà văn hóa nếu chủ thể hoạt động và sáng tạo đó vươn tới tầm cao của tri thức văn hóa, khoa học... ở thời đại, để từ đó sáng tạo ra những giá trị văn hóa đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nền văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh vượt lên trên những tiêu chí đó để xứng đáng là nhà văn hóa lớn của thế giới.
Trong Nghị quyết Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24, khi phong tặng Hồ Chí Minh danh hiệu kép “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn” (Vietnamese hero of national liberation anh great man of culture - nguyên văn bản dịch tiếng Anh), UNESCO đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất của sự khẳng định dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, sự đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam với lịch sử hàng nghìn năm, và những lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được thừa nhận là nhà văn hóa lớn vì trước hết Người đã khởi xướng phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc thuộc địa, giành lại độc lập tự do cho các dân tộc bị bóc lột, phấn đấu vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn người. Đó không phải chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà còn là một sự nghiệp văn hóa cao cả. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, lấy đó làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Người là kiến trúc sư vĩ đại của công cuộc cải cách và xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam, tạo ra một cách nhìn mới, một thế giới quan mới, tạo lập một ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật mới...
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã khơi mở các tiềm năng tinh thần truyền thống Việt Nam, định hướng cho sự ra đời một nền văn hóa mới, một xã hội nhân cách mới. Người là kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người đã đưa nền văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới và khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc mình trước thế giới cũng như góp phần đưa văn hóa Việt Nam giao lưu, hòa nhập với văn hóa thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc, cốt cách văn hóa của dân tộc mình đã hình thành từ những năm 20 của thế kỷ XX. Năm 1924, khi đến thăm triển lãm nghệ thuật tổ chức tại Matxcơva, Người đã nhấn mạnh “mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính dân tộc của mình trong văn hóa nghệ thuật”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng trong việc “thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau” giữa các dân tộc mà trước hết là hiểu biết về văn hóa. Đây chính là những chủ trương về văn hóa của các dân tộc cũng như của UNESCO trong xu thế giao lưu, hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại, thể hiện một cách tiêu biểu và nổi bật sự kết hợp giữa những giá trị nhân văn của dân tộc, những đạo lý của con người Việt Nam với chủ nghĩa Mác-Lênin, chân lý của thời đại và tinh hoa văn hóa nhân loại bao gồm cổ, kim, Đông, Tây. Tư tưởng của Người về văn hóa thể hiện ở ý thức rõ ràng của Người về bản sắc và giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Người xác định càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, càng phải coi trọng truyền thống tốt đẹp của cha ông (2). Người giáo dục nhân dân: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”(3).
Với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại. Sinh thời, Người đã thẳng thắn khước từ mọi danh hiệu làm văn hóa - nghệ thuật mà mọi người thường gắn cho mình. Đúng là người không chú tâm làm nghệ thuật nhưng sự nghiệp cầm bút vì cách mạng của Người đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn hóa “vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, vô cùng cao thượng và phong phú” như chính cuộc đời của Người. Thơ Hồ Chí Minh phần lớn là những bài thơ “đuổi giặc”, bài nào cũng có thể tìm thấy ở đó một ý nghĩa chính trị nhất định, song không bài nào vắng bóng con người. Khát vọng tự do công lý, ấm no, hạnh phúc, hòa bình..., sự cổ vũ cho cái đẹp và mối quan hệ nhân văn giữa người với người, đó là một nội dung chủ đạo trong thơ Hồ Chí Minh. Vì vậy, những bài thơ của Người, trong đó có một số bài ra đời trong cảnh ngộ oái oăm đã trở thành “thơ của muôn đời” bởi giá trị nhân văn cao quý, tỏa sáng từ một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Hồ Chí Minh là nhà văn lớn, và là người mở đầu và đặt nền móng cho nền văn xuôi cách mạng Việt Nam. Người đã tìm tòi, thử bút trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, du ký, truyện viễn tưởng, truyện ngắn, truyện ký, kịch, văn chính luận... và ở lĩnh vực nào Người cũng đạt được thành tựu. Người đã đem lại cho văn chương cách mạng nước ta những yếu tố rất hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là bậc thầy của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Ngòi bút của Người đã tung hoành trên mặt trận báo chí, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Chính Người đã sáng lập và là linh hồn của nhiều tờ báo vô sản đầu tiên trong lịch sử báo chí nước ta và trên thế giới, trước hết là tờ báo Người cùng khổ ở Pháp, tờ Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Việt Nam độc lập ở Trung Quốc và Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất bởi Người là mẫu mực của tinh thần hợp dung văn hóa. Người nhắc nhở phải giữ gìn, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng không tự bó mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thiển cận mà kêu gọi phải ra sức nghiên cứu học tập tinh hoa văn hóa của thế giới xưa và nay. Người còn là hiện thân của văn hóa hòa bình, của đường lối ngoại giao hòa bình, luôn luôn chủ trương giải quyết mọi xung đột bằng thương lượng, đối thoại với thái độ hiểu biết và nhân nhượng lẫn nhau. Ngay từ năm 1947, Người đã khẳng định phương hướng đối ngoại của nước ta là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(4).
Là nhà văn hóa lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên trước nhân loại tấm gương của một con người luôn luôn vươn tới đỉnh cao của văn hóa. Tiêu biểu cho những giá trị đỉnh cao của Người khi trở thành nhà văn hóa lớn phát triển về nhiều mặt: Về mặt trí tuệ, Người là nhà văn hóa uyên bác cả Đông, Tây, kim, cổ, thể hiện tài năng trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa… Về mặt tình cảm, Người mang một “trái tim mênh mông”, “ôm cả non sông vạn kiếp người”. Người thương yêu nhân dân mình và thương yêu cả nhân dân thế giới, lo lắng đến vận mệnh cả nhân loại và quan tâm đến số phận của từng con người. Về mặt hành động, Người là anh hùng kết hợp cả Nhân, Trí, Dũng, nổi lên ở một nghị lực phi thường và một đầu óc vô cùng nhạy bén và sáng tạo. Về tư tưởng triết học, ở phương Tây, Người tiếp thu truyền thống nhân văn từ cổ Hy - La đến Mác-Lênin, đem lại cho truyền thống nhân văn tính hiện thực và tính chiến đấu. Ở phương Đông, Người gạn đục khơi trong, tiếp thu mọi nhân tố tích cực của cả Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo. Trong đời sống riêng tư, Người vừa theo đuổi những hoài bão lớn nhất, vừa sống một cuộc sống giản dị và bình thường về nhu cầu vật chất nhưng lại vô cùng phong phú về tinh thần. Người là chiến sĩ đồng thời là nghệ sĩ, là anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa. Trong những ngày căng thẳng nhất trước công cuộc kháng chiến và kiến quốc, Người luôn thể hiện một sự hài hòa hiếm có: gần gũi với thiên nhiên, gắn bó với xã hội và tu dưỡng bản thân.
Có thể khẳng định nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hóa mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là những giá trị đóng góp vào sự phát triển của văn hóa thế giới. Nhiều chủ trương văn hóa được Người đề ra rất sớm - từ giữa những năm 40 và 50 của thế kỷ XX như: xóa mù chữ, trồng cây phủ xanh đồi trọc, cải tạo môi trường sinh thái… đến đầu những năm 90 đã được Liên hợp quốc đề lên thành những cuộc vận động lớn trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh cho thấy rõ vị trí và ý nghĩa của văn hóa ứng xử. Người đã từng nói một cách vắn tắt: “Chúng ta sống trong thời vẻ vang thì phải sống cho xứng đáng”.
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được UNESCO tôn vinh danh hiệu anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn. Nhà văn Xôviết Ôxips Manđenxtam, từ năm 1923 đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(5). Đó là nền văn hóa thống nhất giữa văn hóa với cách mạng. Bởi vì, bản thân cách mạng cũng là một sự nghiệp văn hóa, nó biểu hiện trọn vẹn một thiên hướng và khả năng sáng tạo, chứng minh và đòi hỏi chúng ta một niềm tin sâu sắc ở tương lai, như nhà văn hóa lớn Côlômbia là Marquez, người được giải thưởng Nobel, tại cuộc gặp lần thứ hai các nhà trí thức Mỹ Latinh, đầu tháng 12-1985, đã phát biểu. Nền văn hóa đó kết hợp truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, phương Đông và phương Tây, thể hiện lý tưởng chung của loài người là độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhân loại đã thấy ở Hồ Chí Minh biểu tượng của nhà văn hóa tương lai. Nhân loại đã thấy ở Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng lớn, nhà lý luận mà còn thấy ở Người một mẫu mực của con người phát triển toàn diện. Sự nghiệp và phong cách văn hóa Hồ Chí Minh như là một trong những dòng chủ lưu đã và đang hòa mình vào dòng chảy của văn hóa thời đại.
T.N.H
(SH288/02-13)
-----------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
(3) GS.PTS. Đỗ Huy, Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997.
(4) PGS. TS Đinh Xuân Lý - PGS.TS Phạm Ngọc Anh, Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008.
(5) Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội,1985.
NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)
NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.
ĐÀO DUY HIỆP “Hội làng mở giữa mùa thu Giời cao gió cả giăng như ban ngày” (Nguyễn Bính)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.