Nhà phê bình - người bạn lớn của những nhà sáng tác

14:49 09/06/2009
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...


1.
Một tác phẩm văn học dù là một hai câu thơ hay nghìn trang văn xuôi sẽ thật hạnh phúc khi có người đọc, hạnh phúc hơn nữa khi có người bình, và cực kỳ hạnh phúc khi được nghiên cứu thẩm định hay, dở, khen, chê một cách khoa học khách quan và công bằng. Vì thế, không một nhà sáng tác nào lại dại dột từ chối người đọc, từ chối nhà nghiên cứu phê bình khi họ khen hoặc chê tác phẩm của mình một cách đích đáng. Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”. Nếu gọi nhà văn là “giáo sư của tâm hồn” thì vị thế của những nhà khen chê đích đáng thật là to lớn. Tôi nghĩ một cách khiêm tốn rằng, chắc chả có nhà phê bình nào lại hợm hĩnh nhảy lên đầu nhà văn để làm thầy của những giáo sư tâm hồn, nhưng cái câu “chê đúng là thầy của nhà văn” đã xác định tầm quan trọng của phê bình văn học trong lịch sử văn chương của mỗi dân tộc và trên toàn thế giới.

2. Một nhà phê bình văn học, bao giờ cũng phải được thể hiện trên ba góc nhìn văn hoá cơ bản, đấy là văn hoá sống, văn hoá đọc văn hoá viết. Không có đời sống phong phú, không thể chia sẻ với đời sống đầy phức tạp trong tác phẩm; Không có cách đọc sẽ không có chìa khoá để mở cửa tiếp cận tác phẩm; và không có một văn hoá viết thì không thể truyền đạt sâu sắc cảm nhận, đánh giá, phán xét tác phẩm. Chúng ta không ấu trĩ đến nỗi coi phê bình chỉ mang ý nghĩa phê phán đơn thuần. Theo từ điển Hán-Việt thì chữ bình đây mang bộ ngôn, có thể hiểu là phát ngôn một cách công bằng; còn chữ phê thì mang khá nhiều nghĩa: Phê là phán quyết, phân xử phải trái, phê là khởi lên một công việc, phê là chẻ ra từng mảnh, nhưng phê cũng có nghĩa là lấy tay đánh vào mặt người khác. Cái nghĩa thứ tư này của chữ phê nghe hơi kinh, nên những nhà từ điển đã không giải thích nghĩa này trong từ ghép Phê bình, mà chỉ giải nghĩa rằng: Phê bình là thẩm định, đánh giá hay dở, phải trái một cách công bằng. Tôi hiểu ý nghĩa này đối với nhà phê bình là phải hơn cả. Còn khi nhà phê bình đạt tới trình độ “hạ bút châu phê” thì đấy chính là “nhà phê bình minh vương” rồi.

3. Tôi có cảm giác rằng phê bình văn học của ta gần đây có vẻ thiên về ý nghĩa thứ tư của chữ phê, nghĩa là “lấy tay đánh vào mặt người khác”. Cái kiểu phê bình này kích động tính tò mò hả hê của công chúng, giống như chuyện vụ án, giết người, hiếp dâm, chỉ điểm, bắt cóc nhan nhản trên báo chí nhằm câu khách kiếm tiền. Khá nhiều tờ báo lợi dụng lối viết dung tục, rẻ tiền này nên nó mới có cơ phát triển lũng đoạn thị hiếu, vấy bẩn tâm hồn giấy trắng. Xem truyện bạo lực nhiều, trẻ con chưa kịp lớn đã trở thành tội phạm; xem nhà văn lấy dao chữ đâm vào nhau trên diễn đàn văn học nhiều, công chúng sẽ coi thường nhà văn và coi thường luôn cả nền văn học thực tại, dẫn tới sự rạn vỡ tình yêu văn học của công chúng.

Tôi không phải là người quá lo xa cho dòng phê bình phê phán nhưng tôi rất ái ngại cho phê phái phê bình đao búa. Nhìn lại các cuộc tranh luận văn nghệ nửa đầu thế kỷ XX như tranh luận về Quốc học (1924 – 1941), tranh luận về Truyện Kiều (1924 - 1945), Tranh luận về Duy tâm và Duy vật (1933 - 1939) tranh luận Thơ mới và Thơ cũ (1932 – 1942), tranh luận về Nghệ thuật vị (1935 – 1939), tranh luận Văn nghệ Việt Bắc (1949 – 1950), v.v... dù có lúc phải bàn đến văn hoá tranh luận nhưng đều mang tới những bài học bổ ích và lý thú về học thuật và quan niệm phát triển tất yếu của văn nghệ nước nhà. Cũng có lúc, những ý kiến mạnh tạm thời thắng thế, nhưng rốt cuộc, qui luật phát triển tất yếu của văn nghệ vẫn có con đường đi rất âm thầm và kiên trì của nó. Trường hợp “tranh luận thơ không vần” đã khiến Nguyễn Đình Thi phải sửa thành thơ có vần, nhưng cuối cùng ông vẫn trở lại thơ không vần; và trường hợp “tranh luận sân khấu” 1950 gạt bỏ sân khấu cải lương, nhưng cuối thể kỷ, cải lương vẫn tồn tại như ta đã thấy. Điều ấy chứng tỏ rằng, tranh luận có đúng và có sai, nhưng có tranh luận dân chủ mới thu hút được sự chú ý đối với văn học, và xác định được con đường lớn của văn học. Tại sao chúng ta thiếu tranh luận thực sự dân chủ? Là vì người đưa ra tranh luận chỉ khăng khăng mình đúng mà không chấp nhận những ý kiến khác, cho rằng tất cả các ý kiến khác mình, đều sai. Hơn nữa, dù đối tượng tranh luận không sợ phê bình phê phán, nhưng họ lại sợ phê bình đao búa. lẽ đây là điều nhức nhối nhất của phê bình văn học ta hiện nay. Hình như đã có dấu hiệu xuất hiện chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa háo danh trong phê bình văn học, điều mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã từng đả phá.

4. Trong lao động, chúng ta yêu cả người trồng rừng lẫn người đốt cỏ, bởi chúng ta cần rừng xanh. Chính vì thế, chúng ta căm thù những kẻ đốt rừng. Trong phê bình văn học cũng vậy, sự chăm chút tài năng, phát hiện tài năng, ghi nhận các giá trị thực sự, là điều vô cùng quan trọng. Nếu có tỉa cây đốt cỏ trong khu rừng văn học, thì đấy là điều rất cần thiết, nhưng phải hết sức cẩn trọng, và phải chuẩn bị sẵn xe cứu hoả. Tôi nói điều này, vì tôi quan niệm rằng, chúng ta hãy tìm đến cái hay cái đẹp của văn chương mà thưởng thức nó, khiến cho người khác cũng cảm yêu cái hay cái đẹp ấy, nghĩa là tôi thích làm người trồng rừng chứ không thích làm người đẵn cây.

Kinh nghiệm phê bình văn học cho thấy, Lá cỏ của Uýt-man bị phỉ báng ở Mỹ khi vừa ra đời, nhưng đã lọt vào mắt xanh của một người Anh, và rồi nó trở thành tác phẩm vĩ đại. Thơ Mới 32-45 tồn tại trong lời khen của Hoài Thanh, Hoài Chân cho mãi tới hôm nay. Đương thời có thể cho rằng Chế Lan Viên đã “bốc thơm” Hàn Mặc Tử khi ông nói: “Mai sau còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử”, nhưng bây giờ nhìn lại, thấy quả là ông nói đúng. Khen và chê vốn không có tội, vấn đề là khen đúngchê đúng. Nhưng đối với phê bình, làm được điều đó quả là không dễ, huống hồ người đọc luôn yêu cầu cao hơn việc khen đúng chê đúng, đấy là phải khen thật hay, thật thuyết phục, chê cũng phải thật hay, thật thuyết phục. Khen chê để người đọc “thủng nhĩ” là điều mà phê bình văn học của chúng ta phải phấn đấu rất nhiều.

Dù sao, tôi vẫn nghĩ, phê bình văn học của ta cần tăng cường hơn nữa tính phát hiện, nâng đỡ tài năng và tác phẩm. Phê bình không chỉ dẫn dắt người đọc, dẫn dắt nhà văn mà còn phải nâng đỡ họ đến với những giá trị mới mẻ và hữu ích, chứ không phải chỉ nói rằng thích hay không thích. Chỉ nói thích hay không thích thì chẳng cần đến nhà phê bình.

5. Cuối cùng, là một người làm thơ và có viết nhiều bài về thơ, tôi tha thiết đề nghị các nhà phê bình ở ta để tâm đến thơ nhiều hơn nữa. Có người nói, thế hệ các nhà thơ chống Mỹ đóng góp rất lớn cho thơ Việt nửa cuối thế kỷ XX, nhưng họ thiếu mất một Hoài Thanh của thế hệ họ. Chính vì thế mà hiện tượng một số nhà thơ nhảy vào viết phê bình tiểu luận về thơ. Đấy là hiện tượng không có gì lạ đối với thế giới, và đối với nước ta, nhưng điều đó là rất đáng ghi nhận trong lúc sân bóng thơ trống vắng những cầu thủ phê bình, bởi ở đấy có thể đăng tải khối lượng rất lớn các vấn đề thơ ca trong nước và thế giới. Và tôi tin rằng, các nhà phê bình sẽ thực sự là bạn của nhà thơ, nhà văn, độc giả, và hơn thế nữa, các nhà phê bình sẽ là bạn thân thiết của nhau.


Hà Nội, 12.8.2003
N.T.T
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HÙNG

    VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)

  • LGT: Bài viết tóm tắt những yếu tố và tiến trình tạo thành thơ Tân hình thức Việt, qua sự đối chiếu giữa các thang giá trị, thơ Việt và thơ Anh Mỹ. Vì vậy, tuy không thể tránh những từ chuyên môn về luật tắc thơ, nhưng chúng tôi cố gắng viết rõ ràng từng chi tiết, để người đọc dễ nắm bắt. Thơ Tân hình thức Việt đơn giản, dễ hiểu, nhờ sự tham khảo những nguồn thơ khó, điều này cũng tự nhiên, như Pop Art (bình dân) phản ứng lại hội họa Trừu tượng Biểu hiện (cao cấp). “Nghĩ về cách làm thơ”, cần đọc chậm rãi, trầm tư, và nhiều lần, nếu người đọc thật sự muốn tìm hiểu dòng thơ này.

  • ĐẶNG ANH ĐÀO

    Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN

    Diễn ngôn tâm thần phân lập (discours schizophrénique) là thuật ngữ do hai triết gia và nhà nghiên cứu văn học người Pháp là G.Deleuze và F.Guattari đề xuất trong công trình viết năm 1972, Chủ nghĩa tư bản và bệnh tâm thần phân lập: Chống Oedipe (Capitalisme et Schizophrénie I. L’Anti-Œdipe).

  • ĐỖ QUYÊN   

    “Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
                                                (J.W. Goethe)

  • Từ năm 1972 cho tới nay đã có nhiều học giả, qua tập Yên thiều bút lục mới sưu tầm và vài nguồn tư liệu khác, đưa ra nhận định: Câu đối “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của tri phủ Ngải Tuấn Mỹ người Hoa tặng phó sứ Nguyễn Tư Giản khi sứ bộ Việt Nam ghé lại địa phương này chứ không phải của Cao Bá Quát.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Tính khả hữu từ sự xuất hiện của đối tượng trong các chiểu sự là hình thái của đối tượng.(1) (Wittgenstein, Tractatus, 2.0141)  
    Khi một điều gì đó trở nên đúng trong hư cấu thì ở đó không còn sự phân biệt khác nhau về mặt hữu thể học và nhận thức luận.”(2) (Gregory Currie) 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Hài hước: cơn say của tính tương đối nhân thế, niềm vui thú kỳ lạ nảy sinh từ niềm tin chắc rằng chẳng có sự tin chắc nào cả. (Milan Kundera)

  • NGUYỄN THANH TÂM

    Đạo đức (ethic, morality), luân lý (moral), theo Edgar Morin, hai khái niệm này không tách rời nhau, đôi khi chồng lấn và có thể sử dụng bất cứ từ nào(1).

  • NGUYỄN QUANG HUY

    - Để tìm hiểu không gian xã hội của những người sản xuất văn hóa, cần phải tư duy theo mô hình quan hệ.
    - Sự việc, hiện tượng bản thân nó không quan trọng, mà chính quan hệ giữa chúng mới có ý nghĩa.
                            (Pierre Bourdieu)

  • KHẾ IÊM

    Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.

  • PHẠM THỊ HOÀI

    Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.

  • LỮ PHƯƠNG

    Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.

  • MAI ANH TUẤN

    Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU

    14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.

  • TRẦN HOÀI ANH

    1.
    Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.

  • JOSEPH EPSTEIN

    Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
                                    (La Bruyère).

  • LÊ THÀNH NGHỊ

    Văn học nghệ thuật có sứ mệnh phản ảnh sự thật cuộc sống qua đó rút ra bài học ý nghĩa đối với con người. Nguyên lý này không có gì mới mẻ. Lịch sử văn học nghệ thuật cũng chứng minh rằng, gắn bó với hiện thực, phản ảnh chân thực hiện thực là thước đo giá trị của tác phẩm. Điều này cũng không còn xa lạ với mọi người.