Nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy: Có một nền văn chương bị quên lãng

14:55 05/04/2018

Theo nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy, đó là thời kỳ đầu của văn chương Sài Gòn gắn liền với thuở bình minh của báo chí chữ Quốc ngữ. Trần Nhật Vy đã tìm thấy nhiều tác phẩm có giá trị văn học sử trong quá trình nghiên cứu báo chí chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19.

Nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy

Nếu xét theo số lượng đầu sách đã ấn hành, có thể gọi Trần Nhật Vy là nhà nghiên cứu khi ông đứng tên khá nhiều tác phẩm biên khảo về lịch sử báo chí, văn hóa gắn với địa danh Sài Gòn - TPHCM, như: Mười tám thôn vườn trầu, Chữ Quốc ngữ: 130 năm thăng trầm, Từ Bến Nghé đến Sài Gòn… Nhưng trước khi làm công việc của một nhà nghiên cứu, Trần Nhật Vy làm ở Bảo tàng Cách mạng (nay là Bảo tàng TPHCM) sau đó chuyển sang làm báo chuyên nghiệp cho đến lúc về hưu vào năm 2016. Cả hai công việc này đòi hỏi sự tỉ mẩn để cho ra đời một nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy như hiện nay.

Từ nghiên cứu về quá trình ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ cũng như giai đoạn bình minh của báo chí chữ Quốc ngữ, Trần Nhật Vy phát hiện có một nền văn chương chữ Quốc ngữ trên báo chí Sài Gòn thời kỳ này.

Lâu nay, nhiều nhà nghiên cứu văn học thừa nhận: “Báo chí Quốc ngữ là cái nôi của văn học Việt Nam”. Nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy cho biết: “Đã là người Việt, đã là người Sài Gòn thì đều biết chữ Quốc ngữ được phổ biến đầu tiên ở Sài Gòn và văn bản bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên chính là tờ Gia Định Báo xuất bản tại Sài Gòn, số ra đầu tiên ngày 15-4-1865”.
Dấu mốc để Trần Nhật Vy xác định tác phẩm văn chương đầu tiên in trên báo Quốc ngữ vào ngày 1-12-1881, trong mục Thứ vụ trên Gia Định Báo bỗng xuất hiện 3 bài viết văn xuôi ngắn chiếm nửa trang báo khổ A3, không có tên tác giả, gồm: “Cách thế cứu người chết ngột”, “Tên chăn bò” và “Thằng ăn trộm với con heo”. “Cách thế cứu người chết ngột” (đúng ra là chết ngộp) là một bài khoa học thường thức, còn 2 bài kia là truyện. 
 
Trần Nhật Vy cho rằng: “Phải chăng đây là những truyện đầu tiên được đăng trên báo Quốc ngữ? Nhưng tác giả là ai? Sau đó, tôi đọc cuốn Phansa diễn ra quấc ngữ của ông Trương Minh Ký in năm 1884 và tái bản năm 1886, tôi phát hiện trong đó có đăng 2 truyện này. Phansa diễn ra quấc ngữ là những truyện “chuyển thơ ngụ ngôn La Fontain thành văn xuôi” của ông Trương Minh Ký. Với tôi, dù là chuyển thể từ thơ, nhưng đây là những truyện đầu tiên, viết bằng văn xuôi, in trên báo Quốc ngữ Sài Gòn. Vì vậy tôi chọn thời điểm 1881 làm cái mốc bắt đầu cho văn chương Sài Gòn”.
 
NXB Văn hóa - Văn nghệ TPHCM đã ấn hành 2 tập Văn chương Sài Gòn 1881 - 1924 (dự kiến có 5 tập) do Trần Nhật Vy biên khảo từ các báo chữ Quốc ngữ thời này, như: Gia Định báo, Nam Kỳ, Nông Cổ Mín Đàm, Nam Kỳ Địa Phận, Lục Tỉnh Tân Văn, Trung Lập báo… Ông dừng lại ở năm 1924 vì năm 1925, tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách - tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ra đời năm 1925. Như vậy, trước khi có Tố Tâm cả 40 năm, tại Sài Gòn có một nền văn chương Quốc ngữ thịnh hành trên báo chí.
 
Thế nhưng nền văn chương này gần như bị lãng quên và không được văn học sử nhắc đến như những viên gạch đầu tiên tạo nền tảng cho văn học chữ Quốc ngữ hiện nay. Trần Nhật Vy cũng như nhiều người đi học tại miền Nam trước 1975 đều không biết có cuộc thi “Quảng văn thi cuộc” - cuộc thi văn học chữ Quốc ngữ đầu tiên vào năm 1902, do báo Nông Cổ Mín Đàm tổ chức với 49 thí sinh, mà sau này nhiều người trở thành các cây bút nổi tiếng. Giáo dục trong nhà trường khi đó chỉ dạy các tác phẩm của Tự lực Văn đoàn, thơ của phong trào Thơ mới mà không nhắc đến văn chương giai đoạn 1881 - 1924 trên báo chí Sài Gòn dù chỉ với giá trị văn học sử. Trong khi đó, những tên tuổi như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Quản… đều có tác phẩm văn chương Quốc ngữ đóng góp cho giai đoạn này.
 
Sự thiên lệch này từng khiến nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân đã viết trong Khi lưu dân trở lại: “Miền Nam vốn có một địa vị về văn nghệ và có ảnh hưởng sâu rộng trong quảng đại quần chúng lan tràn đến cả miền Trung lẫn miền Bắc. Miền Nam đã gây dựng phong trào tiền phong về mọi phương diện văn nghệ: báo, tạp chí, truyện ngắn, truyện dài, truyện dịch, đặc biệt là tiểu thuyết Trung Hoa, truyện phóng tác tiểu thuyết Tây, phong trào xuất bản rộng lớn các loại thơ bình dân và rất phồn thịnh…”. 
 
GS Nguyễn Văn Xuân viết tiếp: “Văn nghệ miền Nam phải có quyền được các học giả nghiên cứu sâu rộng. Bộ Văn học sử của Dương Quảng Hàm cũng như các bộ phê bình văn học của Vũ Ngọc Phan đều phiến diện. Việc giảng dạy trong các nhà trường không thể tiếp tục như cũ. Không thể quá nặng về văn học miền Bắc mà lầm tưởng là văn học Việt Nam, vì văn học Việt Nam từ thế kỷ 18 trở lui chính là văn học hai miền, mà từ 1862 đến 1932 thì miền Nam đã vọt lên vai tiền phong, hướng dẫn cả mọi phương diện phát triển văn học Quốc ngữ, mà còn đào tạo những nhà văn nhà báo cho cả hai miền sau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp… Định lại giá trị văn học miền Nam chính là trở về sự thật, chính là biết tỏ lòng yêu quý và lo lắng cho đời sống tinh thần của dân miền Nam mà trong hoàn cảnh hiện tại, đó là lực lượng chủ yếu của mọi thăng trầm!”. 
 
Đọc Văn chương Sài Gòn 1881 - 1924 cũng là để thấy lại sinh hoạt một thời của người Sài Gòn, người Nam bộ, vì khi đó các tác phẩm rất gần gũi với đời sống hàng ngày. Theo nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy: “Các tác giả viết truyện hay làm thơ cũng là một cách để truyền bá Quốc ngữ, nên nội dung khá cô đọng và dễ hiểu. Nếu nói đọc văn chương thời kỳ này để thưởng thức nghệ thuật thì có lẽ chưa thấy nhưng chắc chắn lịch sử công bằng phải nhắc đến”.

Theo Hoàng Nhân - SGGP
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 2 đầu sách Thú lang thang người Hà Nội và Thú ăn chơi người Hà Nội (2 tập) của nhà văn Băng Sơn vừa được Huy Hoàng Bookstore tái bản và ra mắt độc giả. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tiến cho rằng, đọc lại những cuốn sách này có thể nhận thấy tình yêu rất lớn Băng Sơn dành cho Hà Nội.

  • Trong giới nghiên cứu, cái tên Nguyễn Thị Hậu rất quen thuộc, mọi người còn đặt cho chị cái tên thân thiết là “Hậu khảo cổ”.

  • Tiểu thuyết “L’Étranger” nổi tiếng của nhà văn, triết gia người Pháp Albert Camus đã được độc giả Việt Nam biết tới qua bản dịch “Người xa lạ” từ những năm 60 của thế kỷ trước.

  • Cuốn sách “Cô gái đến từ hôm qua” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh vừa được NXB Trẻ ra mắt phiên bản đặc biệt nhân dịp chuẩn bị công chiếu bộ phim cùng tên do đạo diễn Phan Gia Nhật Linh chuyển thể kịch bản và dàn dựng.

  • Sau 12 năm từ lần xuất bản đầu tiên, tiểu thuyết lịch sử “Trần Quốc Toản” của nhà văn Lưu Sơn Minh “tái xuất” với diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Ngày 15/6/2017, nhân dịp “Trần Quốc Toản” phiên bản mới (họa sĩ Thành Phong minh họa, Công ti Cổ phần Văn hóa Đông A và Nxb Văn học liên kết ấn hành) ra mắt bạn đọc, buổi giao lưu với nhà văn Lưu Sơn Minh đã diễn ra tại Nhà sách Cá Chép - 115 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội.

  • Đó là tác phẩm mới ra mắt của nhà thơ Nguyễn Duy. Tác phẩm là tập hợp các bài viết vốn đã đăng rải rác trên các báo nhiều năm nay.

  • Nguyễn Quang Thiều tâm sự rằng, suốt cả tuổi thơ của những đứa trẻ thôn quê như ông, có một ngọn gió không bao giờ ngưng thổi, đó là ngọn gió của… đói rét.

  • Nhiều trang viết của tác giả mô tả chuyện quan hệ trai gái với từ ngữ bị nhận xét phản cảm.

  • Tiếp sau tập truyện “Đỉnh khói” quy tụ các truyện ngắn về chiến tranh và đời thường, Nguyễn Thị Kim Hòa tiếp tục diện kiến bạn đọc bằng tập truyện “Con chim phụng cuối cùng”. Tập sách gồm 9 truyện ngắn đều tập trung vào đề tài lịch sử với những nhân vật nữ ám ảnh.

  • Các nhà văn Sài Gòn trước đây đều viết feuilleton (tiểu thuyết đăng báo nhiều kỳ). Đầu tiên là có thu nhập hằng tháng để lo cho nồi cơm. Thứ nữa là để độc giả biết tên tuổi, biết tiểu thuyết của mình. Thứ ba là việc viết feuilleton thúc đẩy nhà văn sáng tác liên tục, đồng thời nắm được thị hiếu, yêu cầu của người đọc đương thời.

  • Tác phẩm "Ta có bi quan không?" của Khải Đơn kể những trải nghiệm khó khăn trên hành trình trưởng thành của người trẻ.

  • Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông) Chu Văn Hòa cho biết Cục đang lập hồ sơ để ra quyết định thu hồi cuốn sách “Miếng ngon Hà Nội” do Nhà xuất bản Dân trí liên kết với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Văn hóa Minh Tân – Nhà sách Minh Thắng phát hành do cuốn sách có sai phạm nghiêm trọng về nội dung.

  • Giọt sầu đa mang là cuốn tiểu thuyết thứ 9 của nhà văn Nguyễn Đình Tú. Điểm đặc biệt ở nhà văn này khiến cho anh bật lên so với các nhà văn cùng thế hệ là sức viết khỏe, viết đa dạng nhiều chủ đề...

  • Ở tuổi 85, nhà văn “lão làng” Nguyễn Xuân Khánh tuyên bố dừng viết, bằng một “dấu chấm” được cho là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời văn nghiệp của ông: “Chuyện ngõ nghèo”. Nhưng một mặt, ông lại tiếc, kể chi quỹ thời gian của mình còn nhiều, để có thể... học thêm hai ngoại ngữ nữa.

  • Những cuốn tự truyện viết về tuổi thơ thời chiến tranh, thời bao cấp xuất hiện trên văn đàn không chỉ là những câu chuyện của ký ức tác giả mà còn như những cánh cửa mở ra để độc giả khám phá, tiếp cận với lịch sử ở nhiều góc cạnh khác nhau.

  • “Kim Thiếp vũ môn” là một quyển sách mà cấu trúc, văn phong và bút pháp không theo tiền lệ, nhưng mỗi câu chữ, mỗi chương, mỗi hồi không chỉ là lịch sử, là khoa học, là tiểu thuyết mà còn là tình yêu, là thân phận, là văn chương, thế sự, cuộc đời...

  • Trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí” đã đưa Ngô Kha - một nhà thơ tranh đấu trong phong trào hòa bình và dân tộc ở Huế - trở thành nhà thơ Việt đầu tiên kết hợp được thơ siêu thực và thơ yêu nước.

  • Nhân kỷ niệm 42 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2017), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật vừa cho ra mắt ấn bản tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” của nhà báo - nhà văn Trần Mai Hạnh. Theo nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, sự thật trong cuốn sách là thứ kim cương của văn học tư liệu.

  • Sẽ thật vô duyên nếu viết dài dòng về một cuốn sách kiệm chữ từ tiêu đề trở đi, như trường hợp "Thấy" của Lê Thiết Cương. Nhưng một khi đã “thấy” ở sách nhiều điều cần thấy mà không cất lời thì e rằng kìm nín là một lựa chọn hời hợt.

  • Tính đến năm 2016, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà đã sở hữu sáu tập thơ (Gửi con lời ru, Đi ngang chiều gió, Cỏ mặt trời, Người gánh vô hình, Đứt dải yếm, Ngả vào nguyên khôi), một tập tản văn (Lạc trong đêm liêu trai), ba tập truyện ngắn (Đầm ma, Ám ảnh, Con sóng màu hổ phách), một tiểu thuyết (Mưa trong nắng). Đó là những con số biết nói. Đôi lúc tôi cứ vân vi mà nghĩ rằng, người phụ nữ mảnh mai, dịu dàng này lấy đâu ra sức lực để viết được cả ngàn trang sách như thế, nếu không là đam mê chữ nghĩa, văn chương. Hẳn là cái nghiệp!