Sau 2 công trình nghiên cứu đồ sộ, biên soạn công phu “Thưởng ngoạn Đồ sứ kí kiểu thời Nguyễn (1082 - 1945)” và “Đồ sứ kí kiểu Việt Nam thời Lê Trịnh (1533 - 1788)”, NXB Văn Nghệ 2008 và 2010, vào đầu tháng 3.2014, bộ sách Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn 1802 - 1945 (khổ lớn 27x27 cm, NXB Hồng Đức), do nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn biên soạn đã được ra mắt tại Thư viện Khoa học tổng hợp TPHCM.
Bìa sách Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn
Bộ sách Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn gồm 3 phần:
Phần I: Bản dịch Việt văn và nguyên tác Hán văn mục Bộ Lễ, phần Quan phục trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 78.
Phần II: Giới thiệu 54 bức tranh Đại lễ phục của triều đình An Nam của họa sĩ Nguyễn Văn Nhân, đây là phần cốt lõi nội dung của công trình nghiên cứu này.
Phần III: Phụ lục gồm những bài viết liên quan đến lễ phục thời Nguyễn, mũ áo Hoàng đế, Hoàng thái tử, các quan văn võ, văn thân và võ biền. Hình ảnh Hoàng đế, Hoàng hậu, Hoàng thái tử và triều thần nhà Nguyễn và các bản dịch, bài báo giúp cho người đọc có thêm tài liệu tham khảo.
![]() |
Đại triều phục của Hoàng đế |
Điểm nhấn của bộ sách này là hình ảnh áo mũ vua quan và triều thần nhà Nguyễn với sự sưu tầm công phu của nhà nghiên cứu trong bộ sưu tập 54 bức tranh của họa sĩ Nguyễn Văn Nhân đã thôi thúc tác giả tìm tòi biên soạn trong vòng 4 năm để hoàn tất công trình nghiên cứu này. Vì nếu không có bộ tranh này, thật sự khó hình dung chính xác áo mũ, phẩm phục triều đình nhà Nguyễn bằng tư liệu chữ viết.
![]() |
Phẩm phục hậu |
Theo tác giả Trần Đình Sơn, bộ tranh gồm 54 bức được vẽ từ năm 1902, trên mỗi bức đều có ghi chú các thông tin về địa vị, chức tước, phẩm hàm của các nhân vật bằng 2 thứ chữ Pháp và chữ Hán. Toàn bộ tranh được vẽ bằng màu nước và bột màu trên giấy theo truyền thần và ký họa, kích thước 23x31cm. Bên ngoài bộ tranh ghi rõ dòng chữ Hán viết bằng son: Hoàng phái sắc phục tự thiên tử chí tôn thất. Đó là những bức tranh trong hoàng gia theo chức tước, vị trí trong hoàng tộc, tranh vẽ các quan lại từ nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn, quan võ, lính hầu, cận vệ, nấu ăn, pha trà, giữ voi v...v... Mỗi chức vị, vị trí mỗi người có phẩm phục riêng, rất chi tiết và rõ ràng như lễ phục của hoàng thân trong lễ tế Nam Giao, đại triều phục của “thượng thư” và “tham tri” - chánh nhị phẩm và tòng nhị phẩm.. Hoặc sắc phục lễ Thanh minh của các binh sĩ triều đình, của các loại lính thân vệ, lính dẫn đạo, lính giám thủ, của đội nghi trượng, đội vũ lâm, thủy sư vệ, long thuyền vệ, võng thành vệ... Đây là tư liệu quý giá được biên soạn công phu và tâm huyết của tác giả với tính khoa học cao giúp cho những người sưu tầm nghiên cứu, nhất là giới điện ảnh, sân khấu từ lâu vẫn gặp phải sự lúng lúng trong việc phục hiên nhân vật lịch sử cận đại cũng như rất cần thiết cho giới nghiên cứu thiết kế thời trang.
![]() |
Hoàng đế với lễ phục tế Nam Giao |
Bộ sách Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn cũng đã bước đầu làm sáng tỏ nhân thân của họa sĩ Nguyễn Văn Nhân, tác giả của 54 bức tranh Đại lễ phục triều đình An Nam.
![]() |
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn |
Năm 2009, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn được người bạn ở nước ngoài tặng một đĩa CD chép lại 54 bức tranh về lễ phục triều Nguyễn của Nguyễn Văn Nhân(1). Ở trang đầu ghi vắn tắt: Tác giả Nguyễn Văn Nhân, Biên tu Viện hàn lâm hưu trí, Huế, Tháng 12 năm 1902. Chẳng biết tác giả quê quán ở đâu, làm gì vì từ trước đến nay chưa thấy có công bố rõ ràng về tiểu sử của họa sĩ Nguyễn Văn Nhân. Tình cờ, tác giả bộ sách trong một dịp thăm chùa Tường Vân ở Huế đã may mắn tìm thấy được đôi chút dấu tích của người họa sĩ này. Tại Tổ đình Tường Vân Huế còn tôn trí bức truyền thần của Tổ sư Hải Toàn - Linh Cơ. Bên phải bức tranh có ghi 2 dòng chữ Hán về ngày tháng năm sáng tác và chức vụ, quê quán tác giả: Triều Thành Thái năm thứ bảy(1895) tháng 3 ngày mồng 2. Nguyễn Văn Nhân, chức kí lục Tòa khâm sứ tại kinh đô vâng lệnh vẽ. Quê quán ở phường Kim Liên, tổng Kim Liên, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đúc, tỉnh Hà Nội. Như vậy Nguyễn Văn Nhân vâng lệnh bề trên vẽ bức truyền thần Hòa thượng Linh Cơ, thời điểm ông đang làm ký lục tại tòa Khâm sứ Huế. Nhưng bộ tranh Đại lễ phục triều đình An Nam 7 năm sau đó (tháng 12 năm Thành Thái 14 (1902), ông lại ghi: Nguyễn Văn Nhân, chức biên tu Viện hàn lâm hưu trí. Điều này cho biết trong thời điểm thực hiện bộ tranh ông đã hồi hưu và có thể ước đoán họa sĩ Nguyễn Văn Nhân sinh khoảng năm 30-40 thế kỷ XIX.
![]() |
Sắc phục đội kinh tượng vệ |
Trên phương diện lịch sử hội họa, những họa phẩm của Nguyễn Văn Nhân đã kết hợp khá nhuần nhuyễn hội họa truyền thần truyền thống với hội họa phương Tây mới du nhập, đưa nghệ thuật truyền thần phát triển đến đỉnh cao. Những hoa phẩm còn bảo tồn ở cố đô Huế cũng như chân dung các nhân vật thời Nguyễn qua ngòi bút tài hoa đã toát lên thần thái sinh động, chân thực và chính xác. Các loại phẩm phục, trang phục hoàng gia, triều thần, tăng sĩ, binh lính được miêu tả hết sức chi tiết từ màu sắc đến hoa văn trang trí. Vì thế, theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, tác phẩm hội họa của Nguyễn Văn Nhân là di sản quý báu, có giá trị không những về hội họa mà còn về mặt lịch sử, và trở thành tài liệu quan trọng để phục vụ nghiên cứu, tái hiện lịch sử Việt Nam cận đại.
Đây cũng là tâm huyết của nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn mà ông khiêm tốn gọi là duyên may!
NGUYỄN MIÊN THẢO
------------------
(1) Bộ tranh nầy đã được bán đấu giá ở Mỹ năm 2009
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.