Nhà ái quốc và nhà dân chủ luôn hướng về tương lai

15:20 31/07/2008
TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

Trong bài Xuất dương lưu biệt, Phan Bội Châu có hai câu thơ:
 Ư bách niên trung tu hữu ngã
 Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
 
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
 Sau này muôn thuở há không ai)
 (Tôn Quang Phiệt dịch)
 Hai câu thơ đó đã đúc kết một phần quan niệm và thái độ sống, đồng thời thể hiện một nét rất đặc sắc của nhân cách Phan Bội Châu. Đó là: tiên sinh có một lòng tin rất lớn đối với chính mình đi đôi với một lòng tin rất lớn đối với dân tộc. Cũng có thể nói cách khác: đó là một tinh thần tự chủ rất cao đi đôi với một tinh thần dân chủ rất cao trong sự nghiệp cứu nước và dựng nước.
 
Về thân thế của mình, tiên sinh đã viết một câu rất có ý nghĩa: "Tôi sinh ra năm năm sau khi nước ta mất Kỳ. Một tiếng oa oa dường như đã cảnh cáo cho tôi biết rằng: mày sẽ là một người dân mất nước". Nhận thức rõ thân phận mất nước và nghĩa vụ cứu nước của mình, tiên sinh đã tự giác đứng ra nhận lĩnh trách nhiệm công dân của mình trước lịch sử, không thoái thác, không đợi chờ, không đun đẩy cho ai, dẫu biết rằng đó là việc vá trời lấp biển. Trong bài phú Bái thạch vi huynh (Tôn đá làm anh) có hai câu được mọi người truyền tụng: Tam sinh điền hải chi tư, vị vong tương bá; Nhất phiến bổ thiên chi lực, hựu thị phùng quân (Ba sinh lấp bể có lòng, không quên nhờ bác; Một tấm vá trời ra sức, còn dịp gặp anh). Tiên sinh đã tự nhận xét mình là người "quá tự tin, cho rằng trong thiên hạ này không có việc gì là việc không làm được ", là người "có gan mạo hiểm, dám làm, "dẫu có hàng nghìn hàng vạn kẻ thù trước mắt, cũng quyết tâm đi tới". Tiên sinh cho khó khăn là lẽ thường của cuộc đời, vượt khó là lẽ sống của con người: Ví thử đường đời bằng phẳng cả, Anh hùng hào kiệt có hơn ai. Một quan niệm và một thái độ tự chủ và tự giác như vậy trong hoàn cảnh nước nhà gặp bước gian nan, thể hiện trong suốt một cuộc đời tận tâm tận lực phấn đấu vì lợi ích tối cao của dân tộc, chúng ta không thể gọi tên gì khác hơn là chủ nghĩa anh hùng.
 
Song chủ nghĩa anh hùng của Phan Bội Châu không hề là chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Ngay từ đầu, tiên sinh đã nhận thức và tin tưởng sâu sắc rằng: sự nghiệp cứu nước là sự nghiệp của toàn dân, chỉ cần toàn dân đồng tâm hiệp lực thì khó mấy cũng thành. "Hơn mấy nghìn thằng quỉ sứ làm cho thần giận người oán tài nào ăn ngon ngồi yên với mấy mươi triệu người Việt yêu nước trên đất này được. Nếu người Việt còn có nhân tâm thì nước Việt mất thế nào được". Trong Hải ngoại huyết thư, tiên sinh nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
 Mấy mươi triệu đồng bào đua sức
 Năm mươi nghìn giống khác được bao
 Cùng nhau bên ít bên nhiều
Lọ là gươm sắc súng kêu mới là...
 Ai cũng biết hợp quần là thế
 Khắp bọn này bọn ấy hợp nhau
 Gió lanh thì sấm cũng mau
 Chữ tâm một phút đâu đâu cũng đồng
 Cờ độc lập xa trông phấp phới
Kéo nhau ra đòi lại nước nhà...
 Việc dầu nặng chia mang cũng nổi
Xúm tay vào kéo lại non sông...
 
Vì nhận thức và tin tưởng như vậy nên tiên sinh đã đem hết tấm lòng nhiệt thành đối với mình biến thành tấm lòng nhiệt thành đối với người. Cũng như Hồ Chí Minh sau này, trong giai đoạn lịch sử của mình, Phan Bội Châu trước sau chủ trương đoàn kết dân tộc, tập hợp đủ mọi hạng người Việt Nam, phát huy, cổ vũ tinh thần yêu nước và chí khí anh hùng của họ, lấy đó làm sức mạnh để cứu nước. Trên phương diện này, có thể nói rằng Phan Bội Châu không những là một nhà ái quốc vĩ đại mà còn là một nhà dân chủ vĩ đại. Tiên sinh là nhà dân chủ Việt đầu tiên trong thế kỷ XX. Tinh thần dân chủ của tiên sinh gắn liền với tinh thần ái quốc, thể hiện trong quan hệ đối với mọi người, đối với công việc, về chiến lược cũng như sách lược. Con người kiên cường, bất khuất ấy cũng là con người rất khoáng đạt, bao dung. "Trong khi giao thiệp, nếu nghe được một câu nói hay, thấy được một điều gì tốt là suốt đời không quên, nhất là những lời nói thật tình, những câu phê bình gay gắt thì tôi lại càng vui lòng tiếp thu". "Khi trù tính công việc, chỉ nghĩ đến mục đích, lo sao cho có thể quyết thắng trong năm phút cuối cùng. Còn như thủ đoạn, phương châm thì dù phải thay đổi cũng không ngần ngại". Ai cũng biết rằng với tấm lòng yêu nước và ý chí cứu nước chân thành, tiên sinh đã không ngừng "đổi mới tư duy", đi từ tư tưởng quân chủ lập hiến đến với dân chủ cộng hòa và tiếp cận chủ nghĩa xã hội.
 Những điều đó đối với ngày nay vẫn còn mới mẻ và gần gũi biết bao!
 Trong tinh thần tự chủ và dân chủ đó, còn có một nét đặc biệt nổi bật nữa là thái độ của Phan tiên sinh đối với lớp người sau. Cũng vì biết rằng sự nghiệp cách mạng cứu nước là khó khăn, to lớn, lâu dài, không phải sức lực một người làm nổi, cũng không phải cố gắng nhất thời mà thành công, cho nên, trong quá trình hoạt động, tiên sinh chăm lo đào tạo lớp người sau. Bản thân tiên sinh rất có ý thức kế thừa tinh thần và sự nghiệp của thế hệ đi trước. Cho đến cuối đời, tiên sinh vẫn vô cùng biết ơn các bậc tiền bối như Nguyễn Hàm, tức Tiểu La, một yếu nhân của Nghĩa hội Quảng Nam mà tiên sinh cho là người đã "tác thành" cho mình trong bước đầu hoạt động. Ban đầu, khi xuất dương chỉ nhằm mục đích cầu viện, sắm vũ khí, song khi sang đến Nhật Bản, tiên sinh đã chuyển sang chủ trương vận động Đông Du, đào tạo nhân tài bên ngoài, phối hợp với phong trào Duy Tân, mở mang dân trí trong nước. Dù rằng phong trào bên ngoài cũng như bên trong cuối cùng đã gặp thất bại, song Phan Bội Châu không bao giờ từ bỏ chủ trương và chí hướng đó. Dù ân hận rằng mình có nhiều sơ sót, nhầm lẫn trong việc xét người, dùng người, trong đó có cả những học trò phản bội như Phan Bá Ngọc, song trái lại cũng có nhiều học trò của tiên sinh là những bậc anh hùng rất oanh liệt, xứng đáng với thầy, như Đặng Thái Thân, Hoàng Trọng Mậu, Trần Hữu Lực. .v.v... Tiếc rằng họ sớm hy sinh. Cũng với tinh thần luôn luôn hướng về tương lai đó mà trong những bước khó khăn đầu những năm 20 Phan Bội Châu đã quay nhìn về phía nhà cách mạng lớp sau nhưng đã tiến về phía trước: Nguyễn Ái Quốc. Mãi cho đến cuối đời, ước vọng thành công đối với sự nghiệp nửa chừng bỏ dở của mình, tiên sinh vẫn gửi gắm ở nhà cách mạng lớp sau đầy triển vọng đó. Từ khi bị bắt đưa về nước rồi bị giam lỏng ở Bến Ngự, không còn khả năng hoạt động được nữa thì Phan Bội Châu vẫn luôn luôn đầy lòng tin tưởng và trông cậy ở lớp người sau. Ở con người ấy, dù không tránh được những nỗi buồn sâu xa về chí hướng và thân thế của mình, song không bao giờ tắt niềm hy vọng vào tiền đồ phục hưng của dân tộc.
 Năm 1926, khi Phan Chu Trinh về nước và qua đời, Phan Bội Châu lấy việc khóc người chết để động viên người sống:
 Lấy ai đây nối gót nghìn thu,
Vậy ta phải kêu người chín suối...
Trước đã giỏi thời sau nên giỏi nữa...
Thác còn thiêng thời sống phải thiêng hơn...
 
Một năm sau đó, trong Bài ca chúc Tết thanh niên, tiên sinh tha thiết hô hào lớp hậu sinh:
 Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
 Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần.
 Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
 Nung gan sắt quyết dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...
 
Cũng trong năm đó, tiên sinh viết những bài ca Nam quốc dân tu tri, Nữ quốc dân tu tri, cổ vũ thanh niên nung rèn ý chí, tiếp tục đấu tranh.
 Suốt 15 năm trong vòng kiềm tỏa của địch, tiên sinh dốc cạn tâm huyết còn lại sử dụng văn chương làm phương tiện nhằm không ngừng thức tỉnh ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước của đồng bào, trong đó trung tâm chú ý lúc nào cũng là thế hệ thanh niên. Trong bài diễn thuyết tại trường nữ học Đồng Khánh Huế, tiên sinh đã cực lực cổ động ý thức về nhân quyền, dân quyền và nữ quyền trong chị em phụ nữ. Trong quan niệm của tiên sinh, nam nữ bình quyền, quyền gắn liền với nghĩa vụ. Và trước tiên vẫn là nghĩa vụ cứu nước: Lại như nhà nước khi gặp cơn sóng gió mà anh em chị em ta đều ngồi chung trong một chiếc thuyền, người bẻ lái, người cầm chèo, người kéo buồm, người quay mũi, có lẽ nào một phần con trai mà gánh hết được, thì chị em tất phải gánh lấy cho một phần, họa may chiếc thuyền bị nạn qua khỏi bể trầm luân. Tôi đây, hai mươi năm lẻ, lưu lạc chân trời, nổi chìm mặt bể, không ngờ còn có một ngày nay cùng các chị em hiệp mặt. Tôi trông đến mặt các chị em, vừa vui vừa sợ, vừa mừng vừa lo, như thấy một hột châu rất tươi sáng mà chìm ở dưới vũng cát đã lâu ngày, như thấy một cái bông lan rất thơm tho mà lấp vào giữa đống cỏ đã lâu ngày. Trau dồi cái hột châu này, phát hiện cái bông lan này, ngày ngày đêm đêm chỉ trông mong vào cái công phu học vấn của các chị em ta... Tôi mừng các chị em được như thế, mà tôi lại sợ các chị em chưa chắc được như thế, nên tôi có bấy nhiêu lời.
 
Trước lúc lâm chung, lời nhắn gửi cuối cùng của tiên sinh cũng là lời gửi đến lớp người sau:
 Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa,
 Có vài lời ghi nhớ về sau
 Chúc phường hậu tử tiến mau!
 
Chưa đầy năm năm sau ngày tiên sinh mất, ước nguyện một đời của tiên sinh đã được "phường hậu tử” thực hiện với thành công của Cách mạng Tháng Tám. Năm sáu mươi năm sau đó nữa, hôm nay lớp con cháu của tiên sinh sẽ tiếp tục cố gắng để thực hiện ước nguyện của con người đáng kính ấy, nhà ái quốc và nhà dân chủ mà tầm măt và tấm lòng luôn luôn hướng về tương lai, vì vậy mà cũng mãi mãi thuộc về tương lai...
 29-10-1990
T.T.Đ

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.

  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.