Nhà thơ Lữ Mai, Huế bây giờ vẫn tím những ngày xưa

16:20 22/10/2024
Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

Huế là vùng đất lịch sử, văn hóa, tâm linh; vùng đất của thơ ca, âm nhạc. Biết bao văn nhân đã thành danh, nổi danh trên đất Huế; và có biết bao nhà văn, nhà thơ đã viết về Huế, nhiều người tên tuổi gắn với những tác phẩm về Huế. Thế nhưng, Huế mãi mãi vẫn là vùng đất “kích hoạt” đam mê, sáng tạo. Cảm xúc về Huế không thuộc về riêng ai.

Có lẽ cũng vì điều này, khi phát hiện ra trong Vực trắng của Lữ Mai có mục “Gửi Huế” gồm 10 bài thơ, tôi ưu tiên xem trước, dẫu không phải bắt đầu từ đầu tập thơ. Với một nhà thơ thế hệ 8X như Lữ Mai, Huế trong tâm hồn họ như thế nào?

Không gian Huế trong thơ Lữ Mai có vật thể và phi vật thể, từ thành quách, rêu phong... đến ẩm thực, trà sen, tiếng dạ thưa xứ Huế; có biểu tượng nghệ thuật bốn mùa, hoa cỏ và những gì thân thương nhất thuộc “Vòm Huế”. “Hẹn hò bằng dáng cỏ cây/ nhịp thở/ mây bay/ nhịp ngày/ mòn lối/ dơi quên về ăn vải Phụng Tiên” (Vòm Huế).

...
Cớ chi người đợi bên tùng bách
Trách thuở Nam Giao tơ đồng
Trách thuở trăng soi Vọng Cảnh
Huế bây giờ vẫn tím những ngày xưa
                             
(Cà phê với Huế)

Đọc Vực trắng nhận ra trong tâm hồn trong như sương mai của nhà thơ Lữ Mai có một phần thuộc về Huế. “Ngày mai điểm trang/ mây trắng phủ ngang trời Bạch Mã/ nụ hôn ngàn năm vẫn lạ/ ánh lên phơi phới tháp ngà” (Thủ thỉ).

Đọc những bài thơ của Lữ Mai về Huế, nhận ra ở chị năng lượng và ý thức luôn khát khao mang đến những điều mới mẻ cho thi ca. Chị là một nhà thơ, nhà báo xông xáo, gắn bó với cuộc sống, giàu lòng trắc ẩn. Theo dõi trên trang cá nhân, dễ nhận ra chị “xê dịch” nay đây mai đó.

Năm 2020, Lữ Mai tặng tôi trường ca Ngang qua bình minh (2020) viết về biển đảo, sự hy sinh anh dũng của những người lính hải quân. Trường ca này đã được nhận giải Ba, Giải thưởng Văn học về biên giới, biển đảo giai đoạn từ 1975 đến nay của Hội Nhà văn Việt Nam. Lần trao giải đó, nhà thơ Đoàn Văn Mật -chồng chị cũng được đứng trên bục vinh danh.

Năm 2021, Lữ Mai tặng tôi trường ca Chư Tan Kra mây trắng (2021) về “Trung đoàn mũ sắt” - đề tài hậu chiến về cuộc chiến đấu của các cựu binh ở ngọn núi Chư Tan Kra ở chiến trường Tây Nguyên năm xưa. Năm 2022, chị tặng tiếp trường ca Hồi sinh (2022) về đại dịch khủng khiếp có tên là Covid-19. Thú thật, tôi choáng ngợp, bất ngờ về năng lượng trong thân hình mảnh mai, ngỡ như “liễu yếu, đào tơ” của chị.

Cả ba trường ca đều được đánh giá cao, chạm đến trái tim người yêu thơ, thực sự lan tỏa vào trong cuộc sống. Khi xuất bản trường ca Chư Tan Kra mây trắng, Lữ Mai đã dành trọn vẹn tiền bán sách tặng các cựu chiến binh. Kinh phí thu được từ phát hành trường ca Hồi sinh được chị dành cho một số bệnh nhân chịu hậu quả nặng nề của Covid-19.

Lữ Mai là người gắn bó với biên giới, hải đảo; từ các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa đến quần đảo Trường Sa. Phần I của Vực trắng có chủ đề “Từ núi” gồm 14 bài thơ về núi, sông; các địa danh như Nguyên Bình (Cao Bằng), Bảo Yên (Lào Cai); về nhân vật cụ thể như nàng Biêng cho đến nhân vật ẩn dụ. Chắc chắn đây là những sáng tác trong một chuyến công tác nào đó ở các tỉnh biên giới phía Bắc của nhà thơ.

...
dẫu đến lúc tiếng chim chia mùa hạt
gieo lòng sâu mọc nên mùa cây
những bóng người tìm nhau thôi run rẩy
nhẹ hơn bóng núi
và bay
                   
(Từ núi)

Nhà văn Chu Văn Sơn từng nhận xét, trong thơ Lữ Mai chập chờn bóng đời, rưng rức tâm trạng. Thơ Lữ Mai rất riêng, hiện thực khúc xạ qua tâm hồn tinh tế của chị thành một “dị bản”, mở ra sương khói, nhưng dễ đồng cảm, đồng hiện. “Nàng vẫn ngồi thêu trong chiều/ nàng vẫn lướt qua mình chầm chậm/ không ai gọi nàng là thiếu nữ câm/ bởi núi rừng hào phóng phức âm” (Vài khúc cho Biêng). Ở bài thơ này, dù nhân vật căn cước tên Biêng nhưng đã rất “thủy mặc”, huyền ảo. “Lớp hiện thực” đã bị “đẩy lùi” về phía sau.

Trong thơ Lữ Mai, hẳn nhiên có thời gian, bốn mùa, cỏ cây, hoa lá...; tuy nhiên qua tâm hồn giàu cảm xúc, tinh tế của chị thời gian và không gian nghệ thuật ấy được “đẩy lên” thành những thi ảnh mới lạ. Ví dụ: “gió trinh nguyên bịn rịn/ nhận ramình”(Gió đèo); “Mỗi trái hồng ngâm làm một mặt trời/ mùa thu vừa rơi vừa ngủ” (Từ núi); hoặc “ký ức hùng thiêng/ trời nào xanh hơn mắt người nằm lại” (Đợi).

Đợilà bài thơ về hậu chiến, trong thơ Lữ Mai vẻ đẹp của lịch sử vừa bi hùng vừa tráng lệ.

...
lúa đương thì con gái
cánh đồng MườngThanh còn tê tái hẹn hò
mây mang bóng hình tàn tro
đàn chim thắp vệt ngày khói lửa

Nhà thơ Lữ Mai (thứ 3 từ trái sang) nhận giải thưởng trong Cuộc thi Thơ Huế 2023


*

Nhà báo, nhà thơ Lữ Mai sinh năm 1988, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Ngoài giải thưởng về đề tài biên giới, hải đảo, chị cũng đã nhận được nhiều giải thưởng văn chương khác như Giải B, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật, Báo chí giai đoạn 2016 - 2020 của Bộ Tư lệnh Hải quân cho bộ sách Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi; Giải Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019 của Tổng Cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cho tác phẩm Nơi đầu sóng...

Vốn từ và vốn sống đối với chị là hai loại “lưng vốn” chị nâng niu. Ngoài thơ, Lữ Mai còn sáng tác văn xuôi. Năm 2019, Lữ Mai ra mắt tập truyện ngắn đầu tay Linh hồ. Lữ Mai là một nhà báo dấn thân, có dũng khí “giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”, với tất cả trách nhiệm xã hội, đáng trân trọng.

Lữ Mai còn là một người hoạt động văn học nghệ thuật nói chung, hoạt động xã hội sôi nổi. Chị là MC thông minh của nhiều chương trình trên sóng VTV, VOV và tham gia nhiều hoạt động truyền cảm hứng văn học cho lứa tuổi “nhí”.

“Cây nói bằng im lặng/ người nói bằng niềm riêng” là hai câu thơ trong bài “Vực trắng” của Lữ Mai. Tôi nghĩ mỗi người đều có niềm riêng, Lữ Mai càng giàu niềm riêng. “Chợt thấy mình hồi hương trong tiếng chợ/ màu trắng hoa thiền một sắc không”, hai câu thơ này trong bài “Phố nhà binh” xác tín rằng, Lữ Mai luôn suy tư, ưu tư. Chả là đoạn phố Lý Nam Đế, gần Tạp chí Văn nghệ quân đội, từ lâu đã là một cái chợ gốm sứ, sầm uất vào Tết hàng năm.

Cuộc sống đập vào mắt, làm chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Sinh thời nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng nói, khi còn ngạc nghiên người ta còn làm thơ. Với Lữ Mai, ngạc nhiên đã và đang trở thành năng lượng cảm xúc để chị sáng tạo.

*

Không chỉ làm thơ, viết văn xuôi, Lữ Mai còn sáng tác cho thiếu nhi và tham gia vào nhiều hoạt động tạo ra “từ trường” cho trẻ em yêu văn chương, như chị nói. Lữ Mai là tác giả của Ngàn lời sử xanh, một bài thơ dễ thương, được giảng dạy trong sách Tiếng Việt 5, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo.

Tôi mới biết đến gia đình nhỏ của Lữ Mai chừng 5 năm nay nhưng thực sự quý trọng “tổ ấm” văn chương của chị. Chồng chị là nhà thơ Đoàn Văn Mật - Trưởng Ban Thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cả hai đều “ngập đầu” công việc, đam mê, trân trọng và nâng niu con chữ.

Con gái duy nhất của anh chị là Đoàn Lữ Thụy Phương (tên thân yêu là cháu Kẹo) đã và đang mang đến hy vọng về một “tài năng nhí” về văn học, dù cháu đang là học sinh phổ thông cơ sở ở Trường Chu Văn An (Hà Nội). Năm 2023, cháu xuất bản Bố con cà khịa, tác phẩm dành cho trẻ em, được Nxb. Kim Đồng in ấn, phát hành. Cuối năm đó, tác phẩm này được nhận giải của Hội đồng giám khảo Giải thưởng Văn học thiếu nhi Dế Mèn (Báo Thể thao và Văn hóa tổ chức).

Nhỏ nhẹ, dịu dàng, nữ tính ở ngoài đời, đó là ấn tượng dễ nhận ra ở nhà thơ - nhà báo Lữ Mai. Tôi biết năm 2023, Lữ Mai có tham gia cuộc thi “Thơ Huế năm 2023” do Tạp chí Sông Hương tổ chức, chị đạt giải Ba cuộc thi. Ngày diễn ra sự kiện trao giải chị có vào vui chung cùng với các tác giả khác. Lữ Mai ngọt ngào, e ấp cùng Huế.

Tôi nhận ra những nét rất Huế, nơi có “dòng Hương lặng lờ/ toan thở xanh sâu”, như hai câu thơ trong bài “Vẽ” của chị. Dường như Huế phảng phất ở Lữ Mai, từ dáng vẻ bề ngoài đến giai điệu tâm hồn?

Hà Nội, 9/7/2024
N.Đ.H
(TCSH54SDB/09-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • HỒ LIỄU

    Trần Thị NgH [bút danh khác là Thọ Diên] tên thật là Trần Thị Nguyệt Hồng, sinh 18/4/1949 tại An Xuyên, Cà Mau. Năm mười tuổi bắt đầu đọc thơ. Bắt đầu viết văn từ năm 1968.

  • LTS: Nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998), sáng 14/9 tại Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học, thu hút 25 tham luận của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và khoảng 400 người đến dự.

  • CHINGHIZ AIMATỐP

    Dưới đây cuộc trao đổi ý kiến giữa Irina Risina, phóng viên báo Litêraturnaia Gazeta với nhà văn Ch. Aimatốp ít lâu sau Đại hội lần thứ 8 của các nhà văn Liên Xô.

  • BÙI VIỆT THẮNG 

    (Đọc Thuyền trăng - Tập thơ của Hồ Thế Hà, Nxb. Văn học, 2013)

  • TRẦN THÙY MAI

    Tôi biết chị Võ Ngọc Lan từ khi còn làm việc ở Nxb. Thuận Hóa, lúc đó tôi được giao biên tập cuốn Niệm khúc cho mưa Huế của chị.

  • YẾN THANH

    Năm nào đó, hình như tôi đã trồng ở đây một cây ưu tình, cây đã ra hoa lẫn vào màu xanh ngõ vắng, và đã dẫn tôi đến một miền trắng xóa như một giấc mơ đổ vỡ bên trời.
    (Ngõ Huế - Hạ Nguyên)

  • TRUNG SƠN

    100 NĂM NGÀY SINH BÁC SĨ NGUYỄN KHẮC VIỆN (1913 - 2013)

  • Các tạp chí văn nghệ ở các địa phương trong những năm qua đã đóng góp rất nhiều vào dòng chảy văn học Việt Nam. Đó là nơi góp sức hình thành tên tuổi của nhiều tác giả, tác phẩm từ các địa phương trước khi soi vào gương mặt chung của nền văn học nước nhà, là nơi giữ gìn bản sắc văn hóa văn nghệ của mỗi vùng đất, là nơi khởi thủy của những khuynh hướng sáng tạo mới...

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • THÁI KIM LAN

    Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.

  • LÊ MINH PHONG

    Đừng đặt tên cho họ…
    Có thể họ còn vô vàn những cuộc phiêu lưu khác nữa.

                               (Robbe - Grillet)

  • PHAN TRẦN THANH TÚ

    “Chính anh là người đã nhẫn tâm với bản thân mình khi tôn thờ chỉ có một điều duy nhất” (Đoản khúc số 97)

  • KỶ NIỆM 123 NĂM NGÀY SINH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    TRẦN HIẾU ĐỨC

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG 

    Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.

  • THỤY KHỞI

    Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

  • Hoàng Minh Tường

    Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.

  • HOÀNG ANH 

    (Bài viết này, là nén hương lòng tôi thắp dâng lên linh hồn của anh Đơn Phương thân quý!)

  • LGT: Cho đến nay văn học Hậu hiện đại ở Việt Nam vẫn đang là một hấp lực đối với người sáng tạo lẫn phê bình, nhất là giới viết trẻ. Sông Hương đã từng có một chuyên đề sớm nhất về vấn đề này vào số tháng 7/2011.