Nhà Nguyễn Phước tộc với cuộc trùng tu di tích văn hóa ở Huế

09:31 13/03/2025
Từ sau Cách mạng tháng tám, nhà Nguyễn Phước tộc không còn giữ vị trí quan yếu về chính trị như trước, Đại Nội không còn là nơi sống và làm việc của vua và gia đình hoàng tộc, nét vàng son lộng lẫy cũng phải nhòa, dần dần trở thành khu di tích.

Nhưng tâm thức của bao người yêu quê hương đất nước vẫn xem đó là tài sản chung của dân tộc, chứ không phải riêng cho một dòng họ nào. Vì tài lực, vật lực vẫn là của nhân dân cả nước chung sức đóng góp, trải bao năm lao động, huy động bao nhiêu tài năng mới dựng nên. Riêng đối với hoàng tộc, đây còn là nơi thiêng liêng, vì liên hệ đến việc kỵ giỗ, tế lễ các vị tiền triều hàng năm.

Vì lẽ đó, nên khi gặp một biến động nào đó về thiên tai, bão lụt hoặc chiến tranh gây tàn phá nặng nề, biến các khu di tích trở thành phế tích thì tình cảm hoài cổ lại bừng dậy như tâm trạng của Bà huyện Thanh Quan trong "Thăng Long thành hoài cổ":

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo.
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Chính lòng xúc động ấy đã thúc đẩy con người chăm lo việc bảo tồn, gìn giữ tài sản của tiền nhân để lại. Ở một thành phố văn hóa và du lịch như Huế hiện nay, nhiệm vụ có tính chiến lược của những người có trọng trách đối với văn hóa, chính là tìm cách khôi phục lại cho đúng với nguyên dạng bộ mặt cũ của Đại Nội. Công việc này đòi hỏi hai nhiệm vụ lớn: Trùng tu những di tích còn lại và xây dựng lại những cung điện, công trình văn hóa mà các biến cố đã xóa sạch, chỉ còn lưu lại dấu vết cũ với ánh tịch dương.

Thực hiện được những công trình to tát ấy là kỳ công của thế kỷ, vì ngoài công của phải đổ ra khó tính cho chính xác, còn đòi hỏi nhiệt tình cùng tinh thần đoàn kết dân tộc của những người đương đại.

Trong phạm vi của bài này, chúng tôi chỉ xin đề cập một khía cạnh của vấn đề, đó là một gợi ý về sự đóng góp của Nguyễn Phước tộc trong công cuộc trùng tu di tích Hoàng thành Huế hay còn gọi là Đại Nội, một trong những trọng điểm của quần thể di tích văn hóa lịch sử ở Huế.

* * *

Lâu nay, việc quản lý, tu sửa các di tích trong Đại Nội đều do "Trung tâm bảo tồn di tích cố đô" thực hiện. Tuy đã hết sức vận động nhưng kết quả so với yêu cầu chưa được bao nhiêu: Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Hiển Lâm Các, Thái Bình Lâu, Thế Miếu... chỉ là một số nhỏ di tích trong tổng số lớn lao công trình cũ ở Đại Nội. Sở dĩ công việc tiến hành chậm là do nguồn kinh phí nhà nước không dồi dào, kinh phí của nước ngoài và của các cơ quan văn hóa quốc tế như UNESCO tài trợ còn ít ỏi. Phương hướng “Nhà nước và nhân dân cùng làm” chưa được vận dụng đúng mức để phát huy thế mạnh của nhân dân.

Nguồn hy vọng chúng ta là sang năm 1994, rất có khả năng UNESCO sẽ chọn đề án tu sửa các di tích văn hóa lịch sử ở cố đô Huế để thực hiện trong số 5 đề án của quốc gia. Nguồn kinh phí sẽ dồi dào nếu đề án được chấp thuận. Nhưng ngoài sự trông chờ ở đề án, chúng ta có thể thực hiện được ngay trước mắt, những gì có thể thực hiện, liên quan đến việc trùng tu các di tích ở cố đô, cụ thể là ở Đại Nội. Đó là việc vận động sự hưởng ứng công cuộc tái thiết cố đô của nhà Nguyễn Phước tộc ở khắp các nơi trên thế giới và ở trong nước.

Lâu nay, do phải giải quyết các công việc cấp thời, Hội đồng trị sự nhà Nguyễn Phước tộc(1) chỉ đủ điều kiện lo việc tế kỵ ở các miếu điện trong các ngày giỗ chạp, một năm bốn lần. Vấn đề trùng tu các miếu điện như Triệu Miếu, Hưng Miếu, Thái Miếu, Thế Miếu tuy có đặt ra, có vận động nhưng nguồn tài lực chẳng được là bao, và chức năng của hội đồng trị sự cũng không phải là trùng tu di tích. Công việc đó thuộc về "Trung tâm bảo tồn di tích cố đô".

Làm sao vận động được hơn hai triệu con cháu nhà Nguyễn Phước tộc ở trong và ngoài nước cùng tham gia vào việc bảo tồn di tích văn hóa ở cố đô là một điều vừa có ý nghĩa nhân văn, vừa có ý nghĩa chính trị trong giai đoạn "mở cửa" hiện nay. Nhiệt tình của những người thuộc nhà Nguyễn Phước tộc không kém, trái lại họ luôn ấp ủ trong lòng niềm khao khát đóng góp phần mình vào công cuộc tái tạo khuôn mặt Đại Nội xưa. Nhưng cái khó muôn thuở vẫn là vấn đề tổ chức, kết hợp lực lượngtạo niềm tin. Kết quả của những cuộc vận động của hội đồng trị sự vừa qua cho thấy: mặc dù con cháu nhà Nguyễn Phước tộc ở nước ngoài thành đạt rất nhiều, số người ủng hộ công cuộc vận động ít, nhưng sự ủng hộ lại không lớn. Do đó, bao năm qua, hội đồng trị sự chỉ thu nhận được một số kinh phí đủ để tổ chức các lễ tế kỵ Thế Miếu, Hưng Miếu v.v... Đó là một vấn đề đáng quan tâm nếu muốn có thêm nguồn kinh phí để trùng tu, tái tạo các di tích văn hóa trong phạm vi Đại Nội, chứ chưa đề cập các lăng tẩm đền đài khác...

Để công cuộc bảo tồn và tái thiết các di tích ở cố đô có hiệu quả hơn, chúng tôi đề nghị một số biện pháp sau:

1- Phải đặt vấn đề trùng tu các di tích văn hóa Huế, đặc biệt là các cơ sở thờ tự trong Đại Nội Huế thành một mối quan tâm chung, để cùng tìm phương thức giải quyết nhanh và hiệu quả. Vì trùng tu, tái tạo các di tích ấy, nếu thực hiện tốt sẽ có tiếng vang rất lớn, có ảnh hưởng đến bộ mặt văn hóa và du lịch của tỉnh, thu hút khách du lịch trên thế giới, lợi thế về chính trị sẽ vô cùng lớn lao - Đây là thời điểm của sự kết hợp, đoàn kết để chung sức xây dựng. "Nhà nước và nhân dân cùng làm", tinh thần ấy nên phát huy triệt để.

2- Nên chăng mở rộng phạm vi quản lý một số nơi tế tự ở Đại Nội và ngoài Đại Nội cho nhà Nguyễn Phước tộc cùng tham gia?(2) Ngoại trừ các miếu trong Hoàng thành; Tôn Nhân phủ, bên trái cổng Hiển Nhơn, vốn là cơ sở trước kia dành cho việc giải quyết công việc nội bộ của riêng nhà Nguyễn Phước tộc, sau giải phóng đã trở thành hoang phế, nay thì tại khuôn viên ấy dựng nên một ngôi nhà thường dân. Nếu khu vực ấy dành làm nhà thờ họ Nguyễn Phước tộc thì sẽ phù hợp với tinh thần trọng lễ của thời đại hiện nay hơn; và cũng đúng với ý nghĩa của một di tích văn hóa lịch sử.

3- Công việc trùng tu Đại Nội và một số di tích văn hóa ngoài Đại Nội là một công cuộc vô cùng lớn lao, đòi hỏi một số kinh phí lớn. Nếu UNESCO chấp nhận đề án trùng tu di tích cố đô Huế thì hẳn chúng ta có cơ hội để thực hiện các đề án ấp ủ bấy lâu. Nhưng dù quỹ UNESCO có lớn đến đâu cũng không thể trong một thời gian mà vừa trùng tu, vừa tái tạo lại những cung điện cảnh quan đã hoàn toàn đổ nát. Kinh nghiệm thực tế trong các năm qua, chúng ta nhận được của UNESCO rất ít, không đủ tiền để tái tạo hai nhà súng trước Ngọ Môn, cho đến bây giờ vẫn còn thấy cảnh tang thương! Khách nước ngoài, trước cảnh tượng ấy, sẽ đánh giá thế nào về công cuộc trùng tu? Vậy nếu tạo được nguồn kinh phí từ mọi phía càng hay. Nó có lợi cho đất nước không những về mặt vật chất mà còn ở tinh thần. Nếu khơi được nguồn tài lực ở khối người đông đảo nhà Nguyễn Phước tộc ở trong và ngoài nước lẫn những người có cảm tình liên quan và có tinh thần yêu quê hương đất nước thì không gì quý bằng. Chung sức đóng góp để xây dựng quê hương vẫn là đỉnh cao tinh thần mơ ước mà chúng ta hằng mong mỏi.

Trước triển vọng mở ra một giai đoạn mới của công cuộc trùng tu, tái thiết di tích cố đô và thành phố Huế, khi Huế được nâng cấp là thành phố loại II và đang thu hút sự chú ý của nước ngoài về văn hóa và du lịch, bài viết này chỉ mong là những gợi ý và đề nghị một số biện pháp cấp thời thô thiển, ở góc cạnh của một kế hoạch lớn lao, chúng tôi mong có sự đóng góp ý kiến của nhiều bậc thức giả, để kiếm tìm giải pháp sao cho Huế ngày càng đẹp, xứng đáng là một trung tâm văn hóa và du lịch của cả nước.

T.T.B
(TCSH59/01-1994)

-------------
Chú thích:

(1) Sau trận bão lớn 1985, đền miếu trong Đại Nội bị hư hại nặng, các bài vị trong Triệu Miếu được chuyển qua điện Long Đức, năm 1989 Hội đồng trị sự nhà Nguyễn Phước tộc được thành lập để lo việc hoàng tộc, cấp thời làm lễ cung nghinh thỉnh các bài vị về lại Triệu Miếu, nhân đó tiến hành các lễ kỵ, chạp lăng mộ và tiến hành các công việc liên quan đến hoàng tộc như lập gia phả nhà Nguyễn Phước tộc, liên hệ xử lý các vụ vi phạm đào mả tổ tiên gia tộc để lấy vàng bạc v.v… Hiện giờ ông Tôn Thất Hanh làm chủ tịch.

(2) Chúng tôi gợi ý với tất cả dè dặt, mức độ quản lý như thế nào (và ngay cả việc kêu gọi đóng góp tài lực của bà con Nguyễn Phước tộc ở trong và ngoài nước để trùng tu di tích văn hóa) cần phải nghiên cứu để tiến đến một phương thức khả dĩ cho phép.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Đồi Dương Xuân ở nam sông Kim Trà (sông Hương) từng có phủ Dương Xuân là mặc định nhưng vì đồi lại lớn rộng, có nhiều phần nhấp nhô theo phương thẳng đứng, uốn éo theo bình đồ nên đồi có nhiều gò, cồn. 

  • TRẦN ANH SƠN

    Huế mà chúng tôi nhắc đến ở đây là xứ Huế ngày xưa, thuở còn là "Đô thành Thuận Hóa” của Chúa Nguyễn.

  • CAO CHÍ HẢI  

    Nghệ thuật sân khấu, âm nhạc vô cùng phong phú và đặc sắc, nhiều lễ hội cổ truyền và thuần phong mỹ tục tiêu biểu của người Việt được lưu truyền đến Nghệ thuật múa của dân tộc Việt xuất hiện cách đây khoảng 4000 năm.

  • MAI VĂN HOAN

    Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi.

  • TRẦN ĐÌNH BA

    1. Lược sử, ý nghĩa lệ cày ruộng tịch điền
    Trước hết, chúng ta phải khẳng định một sự thật hiển nhiên rằng, Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lúa nước, hay nói như lời nhà Nho Phan Kế Bính (1875 - 1921) có đề cập trong Việt Nam phong tục, thì đó là một “Nông quốc”1, quốc gia lấy nông nghiệp làm gốc.

  • CAO THỊ HOÀNG  

    1.
    Mùi bùn non từ cửa sông theo gió chướng lộng về, tôi ngây ngây mùi nhớ! Cái mùi nhớ đôi lúc bâng khuâng và cũng lắm khi, rịt chặt tâm hồn kẻ hậu sinh với tiền nhân thuở trước. Tôi quay lại Huế.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Trong số những đối tượng được thờ cúng và được xem là phúc thần của nhiều làng xã vùng Huế, thì Khai canh, Khai khẩn là một thần hiệu ra đời khá muộn. 

  • VĨNH AN

    Sự nhẹ nhàng của tính cách sẽ khiến doanh nghiệp (DN) Huế dễ gần gũi với khách hàng hơn; sự chu đáo trong cuộc sống khiến khách hàng có cảm giác được DN Huế quan tâm hơn; lòng yêu thiên nhiên và nếp sống hòa hợp với thiên nhiên sẽ khiến khách hàng yên tâm về sự phát triển xanh và bền vững hơn của DN Huế… Và đó chính là lợi thế của DN Huế, là đặc tính văn hóa nổi bật của DN Huế.

  • TRUNG SƠN

    I - Lời nhắc nhở của nhà văn Nguyễn Tuân.
    Nhà Văn Nguyễn Tuân là người cẩn thận và độc đáo trong việc dùng chữ nghĩa. Vậy nên nhắc đến "cụ", trước hết phải có đôi lời về cái đầu bài.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nơi thờ chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Từ trung tâm thành phố, chạy thêm 25km về hướng Đông Nam sẽ gặp xã Phú Hải (thuộc huyện Phú Vang) gồm 4 ngôi làng tên Cự Lại: Cự Lại Đông, Cự Lại Bắc, Cự Lại Trung và Cự Lại Nam (dân làng thường gọi chung là Cự Lại). Những ngôi làng này nằm kề sát nhau, có chiều dài khoảng 2km, trải dọc ven biển và phá Tam Giang.

  • TRƯỜNG AN     

    “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất trắng trời…”

  • PHƯỚC VĨNH

    Du lịch dịch vụ đang được xác định là mũi tàu xanh của con thuyền rẽ sóng ra biển lớn của Thừa Thiên Huế. Làm sao để mỗi công dân đang sống ở miền sông Hương núi Ngự, ngay từ nhỏ đã được khơi gợi ý thức về việc tạo nên sản phẩm du lịch và triển khai ý tưởng đó, với một ý thức văn hóa Huế đã ăn sâu trong tiềm thức… 

  • VÕ VINH QUANG

    Tộc Nguyễn Cửu và những dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn hóa xứ Thần Kinh

  • NGUYỄN THƯỢNG HIỀN

    Sau đêm binh biến Thất thủ Kinh đô, kinh thành Huế ngập chìm trong máu lửa, tiếng khóc than. Những dãy nhà gỗ, mái tranh chạy dọc hai bên đường Đông Ba đến giáp hoàng cung ngập chìm trong biển lửa. Bọn Tây tay súng, lưỡi lê hàng ngang tha hồ tàn sát quân dân ta.

  • NGUYỄN CAO THÁI

    “Gió đưa cành trúc la đà
    Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Có lẽ không ít lần chúng ta đã nghe nói đến hai dạng thơ Song điệpSong thanh điệp vận của thể thơ Thất ngôn luật Đường, trên thi đàn Việt. Vậy chúng là những kiểu, dạng thơ như thế nào, và quan hệ giữa chúng ra sao?

  • HOÀI VŨ

    * Vài nét về việc du nhập điện ảnh vào Huế
    Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) năm 2016 có đăng bài “Vài nét về lịch sử nhiếp ảnh và điện ảnh ở Thừa Thiên Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cung cấp nhiều tư liệu rất quý.

  • THẢO QUỲNH

    Quyết Chiến là tờ nhật báo đầu tiên của cách mạng xuất bản ở Huế sau Cách mạng Tháng Tám, là cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mạng, tiếng nói của Đảng bộ Việt Minh Thuận Hóa và của tỉnh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên). Mới đây, đọc lại một số báo Quyết Chiến, chúng tôi tìm thấy một số thông tin liên quan đến Ngày Khỏe vì nước đầu tiên của Huế vào giữa năm 1946. Xin trích dẫn lại để bạn đọc tham khảo: