Nhưng tâm thức của bao người yêu quê hương đất nước vẫn xem đó là tài sản chung của dân tộc, chứ không phải riêng cho một dòng họ nào. Vì tài lực, vật lực vẫn là của nhân dân cả nước chung sức đóng góp, trải bao năm lao động, huy động bao nhiêu tài năng mới dựng nên. Riêng đối với hoàng tộc, đây còn là nơi thiêng liêng, vì liên hệ đến việc kỵ giỗ, tế lễ các vị tiền triều hàng năm.
Vì lẽ đó, nên khi gặp một biến động nào đó về thiên tai, bão lụt hoặc chiến tranh gây tàn phá nặng nề, biến các khu di tích trở thành phế tích thì tình cảm hoài cổ lại bừng dậy như tâm trạng của Bà huyện Thanh Quan trong "Thăng Long thành hoài cổ":
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo.
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Chính lòng xúc động ấy đã thúc đẩy con người chăm lo việc bảo tồn, gìn giữ tài sản của tiền nhân để lại. Ở một thành phố văn hóa và du lịch như Huế hiện nay, nhiệm vụ có tính chiến lược của những người có trọng trách đối với văn hóa, chính là tìm cách khôi phục lại cho đúng với nguyên dạng bộ mặt cũ của Đại Nội. Công việc này đòi hỏi hai nhiệm vụ lớn: Trùng tu những di tích còn lại và xây dựng lại những cung điện, công trình văn hóa mà các biến cố đã xóa sạch, chỉ còn lưu lại dấu vết cũ với ánh tịch dương.
Thực hiện được những công trình to tát ấy là kỳ công của thế kỷ, vì ngoài công của phải đổ ra khó tính cho chính xác, còn đòi hỏi nhiệt tình cùng tinh thần đoàn kết dân tộc của những người đương đại.
Trong phạm vi của bài này, chúng tôi chỉ xin đề cập một khía cạnh của vấn đề, đó là một gợi ý về sự đóng góp của Nguyễn Phước tộc trong công cuộc trùng tu di tích Hoàng thành Huế hay còn gọi là Đại Nội, một trong những trọng điểm của quần thể di tích văn hóa lịch sử ở Huế.
* * *
Lâu nay, việc quản lý, tu sửa các di tích trong Đại Nội đều do "Trung tâm bảo tồn di tích cố đô" thực hiện. Tuy đã hết sức vận động nhưng kết quả so với yêu cầu chưa được bao nhiêu: Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Hiển Lâm Các, Thái Bình Lâu, Thế Miếu... chỉ là một số nhỏ di tích trong tổng số lớn lao công trình cũ ở Đại Nội. Sở dĩ công việc tiến hành chậm là do nguồn kinh phí nhà nước không dồi dào, kinh phí của nước ngoài và của các cơ quan văn hóa quốc tế như UNESCO tài trợ còn ít ỏi. Phương hướng “Nhà nước và nhân dân cùng làm” chưa được vận dụng đúng mức để phát huy thế mạnh của nhân dân.
Nguồn hy vọng chúng ta là sang năm 1994, rất có khả năng UNESCO sẽ chọn đề án tu sửa các di tích văn hóa lịch sử ở cố đô Huế để thực hiện trong số 5 đề án của quốc gia. Nguồn kinh phí sẽ dồi dào nếu đề án được chấp thuận. Nhưng ngoài sự trông chờ ở đề án, chúng ta có thể thực hiện được ngay trước mắt, những gì có thể thực hiện, liên quan đến việc trùng tu các di tích ở cố đô, cụ thể là ở Đại Nội. Đó là việc vận động sự hưởng ứng công cuộc tái thiết cố đô của nhà Nguyễn Phước tộc ở khắp các nơi trên thế giới và ở trong nước.
Lâu nay, do phải giải quyết các công việc cấp thời, Hội đồng trị sự nhà Nguyễn Phước tộc(1) chỉ đủ điều kiện lo việc tế kỵ ở các miếu điện trong các ngày giỗ chạp, một năm bốn lần. Vấn đề trùng tu các miếu điện như Triệu Miếu, Hưng Miếu, Thái Miếu, Thế Miếu tuy có đặt ra, có vận động nhưng nguồn tài lực chẳng được là bao, và chức năng của hội đồng trị sự cũng không phải là trùng tu di tích. Công việc đó thuộc về "Trung tâm bảo tồn di tích cố đô".
Làm sao vận động được hơn hai triệu con cháu nhà Nguyễn Phước tộc ở trong và ngoài nước cùng tham gia vào việc bảo tồn di tích văn hóa ở cố đô là một điều vừa có ý nghĩa nhân văn, vừa có ý nghĩa chính trị trong giai đoạn "mở cửa" hiện nay. Nhiệt tình của những người thuộc nhà Nguyễn Phước tộc không kém, trái lại họ luôn ấp ủ trong lòng niềm khao khát đóng góp phần mình vào công cuộc tái tạo khuôn mặt Đại Nội xưa. Nhưng cái khó muôn thuở vẫn là vấn đề tổ chức, kết hợp lực lượng và tạo niềm tin. Kết quả của những cuộc vận động của hội đồng trị sự vừa qua cho thấy: mặc dù con cháu nhà Nguyễn Phước tộc ở nước ngoài thành đạt rất nhiều, số người ủng hộ công cuộc vận động ít, nhưng sự ủng hộ lại không lớn. Do đó, bao năm qua, hội đồng trị sự chỉ thu nhận được một số kinh phí đủ để tổ chức các lễ tế kỵ ở Thế Miếu, Hưng Miếu v.v... Đó là một vấn đề đáng quan tâm nếu muốn có thêm nguồn kinh phí để trùng tu, tái tạo các di tích văn hóa trong phạm vi Đại Nội, chứ chưa đề cập các lăng tẩm đền đài khác...
Để công cuộc bảo tồn và tái thiết các di tích ở cố đô có hiệu quả hơn, chúng tôi đề nghị một số biện pháp sau:
1- Phải đặt vấn đề trùng tu các di tích văn hóa Huế, đặc biệt là các cơ sở thờ tự trong Đại Nội Huế thành một mối quan tâm chung, để cùng tìm phương thức giải quyết nhanh và hiệu quả. Vì trùng tu, tái tạo các di tích ấy, nếu thực hiện tốt sẽ có tiếng vang rất lớn, có ảnh hưởng đến bộ mặt văn hóa và du lịch của tỉnh, thu hút khách du lịch trên thế giới, lợi thế về chính trị sẽ vô cùng lớn lao - Đây là thời điểm của sự kết hợp, đoàn kết để chung sức xây dựng. "Nhà nước và nhân dân cùng làm", tinh thần ấy nên phát huy triệt để.
2- Nên chăng mở rộng phạm vi quản lý một số nơi tế tự ở Đại Nội và ngoài Đại Nội cho nhà Nguyễn Phước tộc cùng tham gia?(2) Ngoại trừ các miếu trong Hoàng thành; Tôn Nhân phủ, bên trái cổng Hiển Nhơn, vốn là cơ sở trước kia dành cho việc giải quyết công việc nội bộ của riêng nhà Nguyễn Phước tộc, sau giải phóng đã trở thành hoang phế, nay thì tại khuôn viên ấy dựng nên một ngôi nhà thường dân. Nếu khu vực ấy dành làm nhà thờ họ Nguyễn Phước tộc thì sẽ phù hợp với tinh thần trọng lễ của thời đại hiện nay hơn; và cũng đúng với ý nghĩa của một di tích văn hóa lịch sử.
3- Công việc trùng tu Đại Nội và một số di tích văn hóa ngoài Đại Nội là một công cuộc vô cùng lớn lao, đòi hỏi một số kinh phí lớn. Nếu UNESCO chấp nhận đề án trùng tu di tích cố đô Huế thì hẳn chúng ta có cơ hội để thực hiện các đề án ấp ủ bấy lâu. Nhưng dù quỹ UNESCO có lớn đến đâu cũng không thể trong một thời gian mà vừa trùng tu, vừa tái tạo lại những cung điện cảnh quan đã hoàn toàn đổ nát. Kinh nghiệm thực tế trong các năm qua, chúng ta nhận được của UNESCO rất ít, không đủ tiền để tái tạo hai nhà súng trước Ngọ Môn, cho đến bây giờ vẫn còn thấy cảnh tang thương! Khách nước ngoài, trước cảnh tượng ấy, sẽ đánh giá thế nào về công cuộc trùng tu? Vậy nếu tạo được nguồn kinh phí từ mọi phía càng hay. Nó có lợi cho đất nước không những về mặt vật chất mà còn ở tinh thần. Nếu khơi được nguồn tài lực ở khối người đông đảo nhà Nguyễn Phước tộc ở trong và ngoài nước lẫn những người có cảm tình liên quan và có tinh thần yêu quê hương đất nước thì không gì quý bằng. Chung sức đóng góp để xây dựng quê hương vẫn là đỉnh cao tinh thần mơ ước mà chúng ta hằng mong mỏi.
Trước triển vọng mở ra một giai đoạn mới của công cuộc trùng tu, tái thiết di tích cố đô và thành phố Huế, khi Huế được nâng cấp là thành phố loại II và đang thu hút sự chú ý của nước ngoài về văn hóa và du lịch, bài viết này chỉ mong là những gợi ý và đề nghị một số biện pháp cấp thời thô thiển, ở góc cạnh của một kế hoạch lớn lao, chúng tôi mong có sự đóng góp ý kiến của nhiều bậc thức giả, để kiếm tìm giải pháp sao cho Huế ngày càng đẹp, xứng đáng là một trung tâm văn hóa và du lịch của cả nước.
T.T.B
(TCSH59/01-1994)
-------------
Chú thích:
(1) Sau trận bão lớn 1985, đền miếu trong Đại Nội bị hư hại nặng, các bài vị trong Triệu Miếu được chuyển qua điện Long Đức, năm 1989 Hội đồng trị sự nhà Nguyễn Phước tộc được thành lập để lo việc hoàng tộc, cấp thời làm lễ cung nghinh thỉnh các bài vị về lại Triệu Miếu, nhân đó tiến hành các lễ kỵ, chạp lăng mộ và tiến hành các công việc liên quan đến hoàng tộc như lập gia phả nhà Nguyễn Phước tộc, liên hệ xử lý các vụ vi phạm đào mả tổ tiên gia tộc để lấy vàng bạc v.v… Hiện giờ ông Tôn Thất Hanh làm chủ tịch.
(2) Chúng tôi gợi ý với tất cả dè dặt, mức độ quản lý như thế nào (và ngay cả việc kêu gọi đóng góp tài lực của bà con Nguyễn Phước tộc ở trong và ngoài nước để trùng tu di tích văn hóa) cần phải nghiên cứu để tiến đến một phương thức khả dĩ cho phép.
ĐỖ XUÂN CẨM
TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI
Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.
NGUYỄN XUÂN HOA
Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.
Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.
ĐỖ XUÂN CẨM
Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.
KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.
KIMO
Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.
LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.
MAI KHẮC ỨNG
Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.
LÊ QUANG THÁI
Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Tùy bút
Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.
PHẠM THÁI ANH THƯ
Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.
ĐỖ XUÂN CẨM
1. Đôi điều tản mạn về Liễu
Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.
TRƯỜNG PHƯỚC
Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.
LƯU THỦY
KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)
LÊ VĂN LÂN
Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.
THANH TÙNG
Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.