Nguyễn Thị Việt Hà: 'Văn chương chân chính chẳng cần sự ăn theo'

14:34 27/06/2014

Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.

Tác giả Nguyễn Thị Việt Hà.

  • Xuân Thủy: 'Viết văn khiến tôi sống nhiều hơn một cuộc đời'

- Ngay khi scandal với Phạm Hồng Phước vừa lắng xuống, chị phát hành tập thơ. Điều này có thể bị cho là lợi dụng thời điểm để quảng bá sản phẩm. Chị nghĩ sao?

- Tôi biết thể nào rồi mình cũng nghe được thắc mắc như vậy. Sự ra đời của một tập sách không phải là bất thần, đột ngột, mà đó là một sự chuẩn bị lâu dài. 62 bài (trong đó có Khi chúng ta già) là tập hợp thơ tôi làm trong nhiều năm. Scandal với Hồng Phước, nói đúng hơn là Phước "mượn" thơ tôi mà không xin phép, xảy ra là điều không mong muốn. Tôi quyết liệt bảo vệ bài thơ của mình đơn giản là tôi trân trọng cảm xúc chính mình, trân trọng ước mơ của tôi và người tôi yêu. 

Chọn thời điểm này phát hành, tôi không có gì để giải thích nhiều. Vì tôi tin, văn chương có nhiều cách để tồn tại chân chính mà chẳng phải có sự "ăn theo" nào. Lẽ dĩ nhiên, tôi mong được độc giả đón nhận tác phẩm, muốn thơ mình được ngân lên trong muôn giai điệu cuộc sống. Việc của tôi và Phước đã qua rồi. Tập thơ của tôi sẽ vẫn ra đời dù có ra sao và vào thời điểm nào. Mọi việc sẽ tiếp diễn như nó vốn có. Mà bạn thấy đấy, tôi không chỉ có một bài thơ Khi chúng ta già.

- Mỗi bài thơ trong "Khi chúng ta già" đều hiển hiện cảm xúc của người phụ nữ sống bình dị, nhưng tâm hồn sâu sắc, tinh tế. Nhân vật "em" ở các bài thơ phải chăng biểu thị cho tâm hồn chị?

- "Em" có thể là bạn tôi, em tôi, những người con gái tôi đã gặp... và tôi viết những điều tôi cảm nhận ở họ. Nhưng phần lớn nhân vật xưng "em" trong những bài thơ tình chính là tôi. Tôi tâm sự, tôi giãi bày về cuộc đời mình. 

- Với chị, viết là để bày tỏ nỗi lòng, tình cảm, hay là một nghiệp, một bản năng thôi thúc?

- Cả hai lý do bạn nêu đều đúng cả. Tôi viết cho tiếng lòng, đam mê, khát vọng của mình, và cả những người đã yêu thương, tin tưởng, trông đợi... Tôi viết như để thở vậy.

- Tình yêu và hạnh phúc lứa đôi tràn ngập trong tập thơ. Vậy nàng thơ nào đã gợi thi hứng cho Nguyễn Thị Việt Hà?

- Tình yêu, hạnh phúc là cảm hứng muôn đời trong thi ca và cũng là mong ước của tất cả chúng ta. Tôi là phụ nữ, khát khao ấy càng cháy bỏng nên tôi viết nhiều về tình yêu lúc hạnh phúc, khi lại day dứt khổ đau. Ở bất kỳ trạng thái nào tôi cũng không ngừng hy vọng vào những điều tốt đẹp tình yêu đem lại. Tôi tin và yêu rất mãnh liệt.

Hầu hết thơ tôi làm đều tặng cho mẹ, chị, em, những người bạn và người tôi yêu thương. Tôi hơi ngại ngùng khi chia sẻ thông tin ai là người tạo cho tôi thi hứng. Tôi chỉ có thể nói, chúng tôi đã "yêu nhau hơn tình yêu được biết". Người ấy không chỉ đồng hành cùng tôi qua mọi chặng đường thành công hay thất bại, thuận lợi hay khó khăn, lúc mạnh khỏe hay đau ốm... mà người ấy thật sự là bầu trời để tôi thoải mái sống trọn vẹn nhất có thể.

- Chị sinh sống và công tác ở miền Nam, vì sao thơ chị viết về làng quê lại đậm chất Bắc Bộ? 

- À, tôi là người "một chốn bốn quê". Mẹ tôi là người Kinh Bắc, bố tôi là người Nam Định. Sau năm 1975 bố mẹ vào Cà Mau sống và năm 1978 sinh tôi ra. Tôi chủ yếu sống và làm việc ở miền Nam, thỉnh thoảng về quê thăm thôi.

Mẹ tôi vừa đẹp xinh vừa hay chữ, từ bé tôi đã được mẹ nuôi dưỡng tình yêu cánh đồng, con đường làng, gốc gạo, cậu bé chân đất, bà lão răng đen... nơi quê mẹ. Tâm hồn tôi ngấm tình yêu ấy từ khi còn rất nhỏ và lúc 7 tuổi, bài thơ đầu tiên là tôi viết về quê mẹ đấy. Mẹ tôi mất lâu rồi, khi tóc người còn chưa bạc, tôi viết về quê mẹ như một cách vỗ về nỗi nhớ thương mẹ tôi...

- Gia tài thơ của chị có khoảng bao nhiêu bài và lý do "Khi chúng ta già" đóng khung với con số 62 tác phẩm?

- Gia tài thơ của tôi có khoảng 100 bài. Quá nửa số ấy là thơ tình, còn lại là chủ đề về gia đình, quê hương hoặc ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống. 62 bài thơ trong tập "Khi chúng ta già" là những bài tôi ưng ý hơn cả.

body-9229-1403749287.jpg

Tập thơ "Khi chúng ta già".

- Con số 901 có ý nghĩa gì với chị, khi nó xuất hiện trên cả văn xuôi lẫn trong một bài thơ?

- Tôi có tập truyện ngắn phát hành tháng 3 mang tên "Bức thư tình thứ 901". Con số 901 chính là số ngày xa cách, tình yêu của chúng tôi cách trở bởi nhiều lý do. Tất nhiên đến ngày 902... thì tình yêu lại nồng nàn (cười). Những ngày cách biệt nhau, tôi đếm ngày, đếm tháng và mỗi ngày đều viết để vượt qua khoảng thời gian đó.

- Công việc hiện tại của chị và dự định chọn thơ là nghề nghiệp theo đuổi lâu dài? 

- Tôi đang là Biên tập viên của tạp chí Văn Nghệ Cà Mau và là người thực hiện 100 câu chuyện ẩm thực trên khắp 64 tỉnh thành của chương trình Chiếc Thìa Vàng. Tôi đã bỏ công việc gắn bó 15 năm (trước kia tôi là giáo viên) để chọn văn chương là nghiệp. Mà bạn ạ, văn chương khi đã ngấm vào máu thì nó gây nghiện hơn cả ma túy.

- Trong năm nay chị đã cho ra mắt tập truyện, tập thơ, tiếp sau chị muốn trình làng đứa con tinh thần nào nữa? 

- Thời gian qua tôi đã cho ra đời một tập thơ và hai tập truyện ngắn: Tập truyện ngắn Con đò và thiếu phụ (NXB Quân Đội); Bức thư tình thứ 901 (NXB Văn Hóa, Văn Nghệ); tập thơ Khi chúng ta già (NXB Văn học). Sắp tới vào tháng 7 và 8 tôi ra mắt tiểu thuyết đầu tay: Bình minh mùa thu (NXB Quân Đội); tuyển tập truyện ngắn: Mưa vẫn rơi ngoài hiên (NXB Văn Học).

Theo Lam Thu - vnexpress

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.