Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Nguyễn Thị Việt Hà.
- Ngay khi scandal với Phạm Hồng Phước vừa lắng xuống, chị phát hành tập thơ. Điều này có thể bị cho là lợi dụng thời điểm để quảng bá sản phẩm. Chị nghĩ sao?
- Tôi biết thể nào rồi mình cũng nghe được thắc mắc như vậy. Sự ra đời của một tập sách không phải là bất thần, đột ngột, mà đó là một sự chuẩn bị lâu dài. 62 bài (trong đó có Khi chúng ta già) là tập hợp thơ tôi làm trong nhiều năm. Scandal với Hồng Phước, nói đúng hơn là Phước "mượn" thơ tôi mà không xin phép, xảy ra là điều không mong muốn. Tôi quyết liệt bảo vệ bài thơ của mình đơn giản là tôi trân trọng cảm xúc chính mình, trân trọng ước mơ của tôi và người tôi yêu.
Chọn thời điểm này phát hành, tôi không có gì để giải thích nhiều. Vì tôi tin, văn chương có nhiều cách để tồn tại chân chính mà chẳng phải có sự "ăn theo" nào. Lẽ dĩ nhiên, tôi mong được độc giả đón nhận tác phẩm, muốn thơ mình được ngân lên trong muôn giai điệu cuộc sống. Việc của tôi và Phước đã qua rồi. Tập thơ của tôi sẽ vẫn ra đời dù có ra sao và vào thời điểm nào. Mọi việc sẽ tiếp diễn như nó vốn có. Mà bạn thấy đấy, tôi không chỉ có một bài thơ Khi chúng ta già.
- Mỗi bài thơ trong "Khi chúng ta già" đều hiển hiện cảm xúc của người phụ nữ sống bình dị, nhưng tâm hồn sâu sắc, tinh tế. Nhân vật "em" ở các bài thơ phải chăng biểu thị cho tâm hồn chị?
- "Em" có thể là bạn tôi, em tôi, những người con gái tôi đã gặp... và tôi viết những điều tôi cảm nhận ở họ. Nhưng phần lớn nhân vật xưng "em" trong những bài thơ tình chính là tôi. Tôi tâm sự, tôi giãi bày về cuộc đời mình.
- Với chị, viết là để bày tỏ nỗi lòng, tình cảm, hay là một nghiệp, một bản năng thôi thúc?
- Cả hai lý do bạn nêu đều đúng cả. Tôi viết cho tiếng lòng, đam mê, khát vọng của mình, và cả những người đã yêu thương, tin tưởng, trông đợi... Tôi viết như để thở vậy.
- Tình yêu và hạnh phúc lứa đôi tràn ngập trong tập thơ. Vậy nàng thơ nào đã gợi thi hứng cho Nguyễn Thị Việt Hà?
- Tình yêu, hạnh phúc là cảm hứng muôn đời trong thi ca và cũng là mong ước của tất cả chúng ta. Tôi là phụ nữ, khát khao ấy càng cháy bỏng nên tôi viết nhiều về tình yêu lúc hạnh phúc, khi lại day dứt khổ đau. Ở bất kỳ trạng thái nào tôi cũng không ngừng hy vọng vào những điều tốt đẹp tình yêu đem lại. Tôi tin và yêu rất mãnh liệt.
Hầu hết thơ tôi làm đều tặng cho mẹ, chị, em, những người bạn và người tôi yêu thương. Tôi hơi ngại ngùng khi chia sẻ thông tin ai là người tạo cho tôi thi hứng. Tôi chỉ có thể nói, chúng tôi đã "yêu nhau hơn tình yêu được biết". Người ấy không chỉ đồng hành cùng tôi qua mọi chặng đường thành công hay thất bại, thuận lợi hay khó khăn, lúc mạnh khỏe hay đau ốm... mà người ấy thật sự là bầu trời để tôi thoải mái sống trọn vẹn nhất có thể.
- Chị sinh sống và công tác ở miền Nam, vì sao thơ chị viết về làng quê lại đậm chất Bắc Bộ?
- À, tôi là người "một chốn bốn quê". Mẹ tôi là người Kinh Bắc, bố tôi là người Nam Định. Sau năm 1975 bố mẹ vào Cà Mau sống và năm 1978 sinh tôi ra. Tôi chủ yếu sống và làm việc ở miền Nam, thỉnh thoảng về quê thăm thôi.
Mẹ tôi vừa đẹp xinh vừa hay chữ, từ bé tôi đã được mẹ nuôi dưỡng tình yêu cánh đồng, con đường làng, gốc gạo, cậu bé chân đất, bà lão răng đen... nơi quê mẹ. Tâm hồn tôi ngấm tình yêu ấy từ khi còn rất nhỏ và lúc 7 tuổi, bài thơ đầu tiên là tôi viết về quê mẹ đấy. Mẹ tôi mất lâu rồi, khi tóc người còn chưa bạc, tôi viết về quê mẹ như một cách vỗ về nỗi nhớ thương mẹ tôi...
- Gia tài thơ của chị có khoảng bao nhiêu bài và lý do "Khi chúng ta già" đóng khung với con số 62 tác phẩm?
- Gia tài thơ của tôi có khoảng 100 bài. Quá nửa số ấy là thơ tình, còn lại là chủ đề về gia đình, quê hương hoặc ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống. 62 bài thơ trong tập "Khi chúng ta già" là những bài tôi ưng ý hơn cả.
![]() |
Tập thơ "Khi chúng ta già". |
- Con số 901 có ý nghĩa gì với chị, khi nó xuất hiện trên cả văn xuôi lẫn trong một bài thơ?
- Tôi có tập truyện ngắn phát hành tháng 3 mang tên "Bức thư tình thứ 901". Con số 901 chính là số ngày xa cách, tình yêu của chúng tôi cách trở bởi nhiều lý do. Tất nhiên đến ngày 902... thì tình yêu lại nồng nàn (cười). Những ngày cách biệt nhau, tôi đếm ngày, đếm tháng và mỗi ngày đều viết để vượt qua khoảng thời gian đó.
- Công việc hiện tại của chị và dự định chọn thơ là nghề nghiệp theo đuổi lâu dài?
- Tôi đang là Biên tập viên của tạp chí Văn Nghệ Cà Mau và là người thực hiện 100 câu chuyện ẩm thực trên khắp 64 tỉnh thành của chương trình Chiếc Thìa Vàng. Tôi đã bỏ công việc gắn bó 15 năm (trước kia tôi là giáo viên) để chọn văn chương là nghiệp. Mà bạn ạ, văn chương khi đã ngấm vào máu thì nó gây nghiện hơn cả ma túy.
- Trong năm nay chị đã cho ra mắt tập truyện, tập thơ, tiếp sau chị muốn trình làng đứa con tinh thần nào nữa?
- Thời gian qua tôi đã cho ra đời một tập thơ và hai tập truyện ngắn: Tập truyện ngắn Con đò và thiếu phụ (NXB Quân Đội); Bức thư tình thứ 901 (NXB Văn Hóa, Văn Nghệ); tập thơ Khi chúng ta già (NXB Văn học). Sắp tới vào tháng 7 và 8 tôi ra mắt tiểu thuyết đầu tay: Bình minh mùa thu (NXB Quân Đội); tuyển tập truyện ngắn: Mưa vẫn rơi ngoài hiên (NXB Văn Học).
Theo Lam Thu - vnexpress
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.