Nguyễn Khắc Thạch - người đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật

10:48 12/09/2008
THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

Như chàng “vệ sĩ của đêm đen” (chữ dùng của Ngô Minh). Nguyễn Khắc Thạch là người trầm tư trước cuộc đời, phán xét sự vật đến tận cùng bản chất, anh can đảm “hôn xác chết”, tự tin, lặng lẽ đối đầu với chúng. Đứng chênh vênh một chân bên dòng sông một bờ, Nguyễn Khắc Thạch rụt rè tường trình lại khá sắc bén và chọn lựa những phát hiện mới lạ về cõi người hiện sinh, chỉ ra những nguyên cớ đang huỷ hoại nhân tính làm tan rã các kỷ cương giường mối xã hội.
Thời tôi sống ruồi nhặng sành mâm cỗ
họ hàng tôm vẫn lộn đít lên đầu
chó ngoại hết hời ra kiếm ăn hè phố
trẻ bụi đời lòng cạn mắt sâu.

Thời tôi sống vô cảm điều trông thấy
dọc đường quan mặt nạ mặt tiền
những thầy tu hành đạo trên xe máy
hẳn đường về cõi Lạc có gần hơn.

Thời tôi sống giấc mơ vàng ô nhiễm
trọc phú lập loè như đom đóm ma trơi
tôi ươm bạc chay thiền phù phiếm
anh tinh đời vờ một gã ham chơi.

Thời tôi sống thương mình trơ cá gỗ
nỏ tơi mang mà chẳng áo công hầu
đất của cỏ thì trời cao gác trọ
sợ miếng mồi như cá sợ mắc câu.

Thời anh sống khác thời tôi sẽ viết
sống thời tôi chín dễ nên mười          
nhưng không dễ sống mà không biết
sống mà nghi mình có phải là người.
                                                     
(Gửi Nguyễn Trọng Tạo)
Sự bất lực trước đấng cao xanh, vĩnh hằng, nỗi cuồng say dâng hiến, bước đam mê gập ghềnh kiếm tìm nửa kia trong tình yêu, cái đẹp lao đao bởi thương tích đầy mình, tự do bị bắt chẹt, “những khoảng trống lương tri bị dối lừa”… đã dẫn đến những vỡ mộng, con người rơi vào cõi mênh mông buồn “Ta chẳng có gì ngoài ta – ngoài chẳng là gì trong ta – áo cơm bờm xơm vỗ mặt – hư danh cầm cố thi ca” (Tự khúc). Thơ Nguyễn Khắc Thạch buồn, mang mang nỗi buồn trước hy vọng và tuyệt vọng, trước nỗi quay quắt của áo cơm cùng sự khủng hoảng đức tin, trước sự dấn thân trong nước mắt tủi hờn đầy kiêu hãnh. Chẳng riêng gì Thạch, Cụ Nguyễn Du xưa cũng đã từng than “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Những mối hận xưa nay khó mà hỏi trời được). Người ta khổ vì có trí tuệ, Thạch khổ vì biết quá nhiều! Anh gọi nỗi buồn về nhận mặt, bóc trần nó ra cho mọi người thấy. Nhà thơ không ngồi nhấm nháp tận hưởng thú đau thương như Lưu Trọng Lư, anh thành khẩn nhìn thẳng vào nỗi buồn để nhận diện chính mình và mọi lẽ quan thiết khác ở đời. Cuộc tìm kiếm mình là một hành trình khổ ải “Ta mang lỗi lầm của máu không đổi màu - Sự nhức nhối thời gian hoá thạch” (Nơi ta sẽ về). Năng lượng cảm thức sâu sắc của nhà thơ đã thuyết phục được chúng ta. Chính vì vậy, đến với thơ Nguyễn Khắc Thạch đòi hỏi ở bạn đọc ít nhiều đồng điệu.
Đầu này một chiếc dép
chỉ một chiếc dép đầu này
mà đầu kia phải lệch
mà đầu kia là cả… không gian
                                      (Bồ Đề Đạt Ma)
Đắng cay nào đắng cay hơn:
Tôi như gã tín đồ bị rút phép thông công
khi thiên đàng dang ngang sợi tóc
em soi vào tôi gương mặt người đàn ông khác
em chỉ sống vì tôi khi đã chết cho người
                                                            (Mặc cảm)
Có nỗi đau nào đau hơn:
Ta ngồi dại hoá đôi khi
Thèm đau lần nữa những gì đã đau
                                               
(Gửi trăng)
Khi thịnh cần cẩn trọng, khi suy cần nhẫn nại. Mọi con đường phần cuối giống nhau, chỉ khác nhau phần đầu. Điều trọng yếu là phải biết sử dụng đời sống, chứ không than vãn để kéo dài tuổi sống. Mặc dù thế giới đầy khổ ải, song cũng đầy những tấm gương vượt qua bể khổ ấy bằng chính con thuyền thơ mỏng manh của mình.
“đứa con hoang của mọi tín điều…”, thi nhân trở dạ làm thơ trong tâm thế ấy. Mạch thơ sám hối, trầm uất lung linh lan toả phản ánh sự chiêm quan khắc khoải, quằn quại bởi roi vọt tai ương và giàn giụa nước mắt cô độc. Giống như chúa Giêsu lê nặng cây thánh giá. Nguyễn Khắc Thạch oằn lưng vác nỗi khổ đau của đời người “Anh cứ đi như chiếc bóng giữa đời – Mong tìm được những gì không mất”.  Nhà thơ phơi trần góc khuất tâm linh, chiếu rọi ánh sáng lương tri lương năng để phục sinh mình. Thơ Thạch được thai nghén trong sự tuyệt vọng “anh như xác vỏ chai lăn ra ngoài cuộc rượu” để sinh hạ ra những đứa con của sinh tồn.Trong một chừng mực nào đó, cảm quan của nhà thơ thiếu sáng, có lúc duy lý đến phũ phàng:
Tôi say lấp chiều lỗi hẹn
có như không là gió là lời
đêm cất vó tang bồng tơ nhện
đom đóm lập loè vỗ mặt trêu ngươi
           
Tôi say sấp chiều đêm rơi
ngõ buồn khê ngọt đường hoa trái
Rồi sẽ đắng người ơi khi tỉnh lại
thấy những điều giả dối trong nhau
                                                  (Ẩn ức)
Mở mặt chào cơm áo
Ôm lòng buốt ngọc châu
Mắt chiều vô tôn giáo
Nhắm linh hồn vào đâu.
                                   
(Tứ thơ)
Thơ Nguyễn Khắc Thạch hút người bằng tâm tình kín đáo, là tiếng vọng của nỗi buồn thấm, cao khiết, trang trọng.
Trời tròn lưng bánh tét
Đất vuông lòng bánh chưng
Dân nghèo thương ngày tết
Gói đất trời rưng rưng.
                                      
(Gói)
Biển như ngân giữa hồn tôi
Câu thơ nghiêng biển nghiêng trời là em
                                                            (Biển và em)
Nhà thơ luôn sống một thế giới ảo:
Có một mùa hè mắc cỡ
Cỏ hoang neo gió sững sờ
Lá bàng rơi nung lửa nhớ      
Đài sen rụng vỡ hương mơ
                                      (Kí ức)
Xuân biên giới với nét cọ phác thoáng đẹp đến thắt lòng :
Nơi ấy xuân về sớm hơn
Nắng trở mình phơi mái núi
Rừng già loà xoà bóng tuổi
Vội xanh lại mé đông tàn.
                                     
(Biên giới)
Nhà thơ đằm mình trong sự chiêm nghiệm, suy tưởng đến kiệt cùng:
Hạt mưa cứ ngỡ của trời
Ai ngờ đất khát vẽ vời làm mưa
Nối bây giờ với xa xưa
Biết mưa còn nối bây giờ - mai sau?
Hạt mưa tan vỡ vì nhau
Hình như mưa cũng đổi màu buồn vui.
                                                            (Mưa)
Nỗi buồn đó của Nguyễn Khắc Thạch mang một hình thái cứu rỗi. “Loại thơ cao siêu luôn hướng tới sự bất tử trong nỗi thống khổ của con người”. Từ mấy thế kỷ trước, Vonter đã chỉ ra như thế.
Thơ Nguyễn Khắc Thạch được nuôi dưỡng bằng một thứ tình yêu trần trụi, máu thịt nên kiệm lời, tứ đúc, ý tưởng dồn nén trong từng câu chữ. Nó là một thứ văn bia tác động đến tư duy trước, truyền mỹ cảm đến sau.
Bên thềm hoang
thiếu phụ
thoát y nằm
Ngọn nến cháy
sau vầng trăng khuyết…
                                    (Thiền)
Người qua đêm mang đêm đi xa
Đêm thắp nến hàn trăng lữ thứ
Đêm thấm khát màu son trinh nữ
Để tái sinh cho huỷ diệt sau cùng…
                                                (Đêm)
Nhà thơ sống trong linh giác mùa thu “Nắng thun chiều gió úa cài then”; sống trong cơn uất ức “biên chế cõng mấy nhà thơ tầng trệt – ăn nói cao hơn tầm thước con người” (Gửi Nguyễn Trọng Tạo); sống trong tâm trạng níu kéo sợ hãi “Muốn ôm chặt chiều - Chiều lại ngả vào đêm” (Chiều), bởi nhà thơ đinh ninh rằng mình đã bị lừa dối ngọt ngào “Tôi đi dọc tháng năm thừa – cô đơn úp mặt dối lừa cô đơn” (Gửi Nhật Lệ), Tín nghĩa bị xâm phạm, nhà thơ thắc mắc đến cái “đức tin có bảo hành – và chỗ dựa có đức tin - chỉ là những gì mong manh hư ảo” (Ý tưởng). Nhà thơ hoài nghi “chiếc mặt nạ hài hước - sự thật trở nên tàn nhẫn hơn”. Nhà thơ buồn vì “bao giờ con người cũng là một thực thể kép - ước vọng thì đầy nhớ tiếc thì vơi” (Thông cảm). Nguyễn Khắc Thạch luôn mặc cảm coi mình là kẻ đang lâm nạn “anh bị chém bằng lưỡi rìu ngôn ngữ - những đổ vỡ hư danh như hoàng hôn bầm dập đáy chiều - bức tranh món ăn không no được bụng - hiện thực cục cằn như kẻ đói yêu…” (Hiện thực). Không có gì làm ta cao thượng bằng một niềm đau khổ  lớn lao. Trông cây mà ngẫm đến mình “Thấy thương cây cũng cụt đầu vì cao” (Với cây). Người ta thường căm ghét những gì làm họ sợ. Và, chết là sự giải thoát cho kiếp người “Áo cơm thôi sấp ngửa – Hương khói còn so đo - Những gì thắp được lửa - Rốt cùng đều thành tro” (Viếng mộ). Nhà thơ lại ngồi ước gì được quay về cái hồi  “Mải chơi tiền lá rụng đầy tuổi mơ”, mong lấy lại niềm tin xanh “Nơi cây cỏ trinh niềm hoang dã - mỗi bước đi qua xanh mãi thuở ban đầu”. Một người phải chờ đợi, thời gian dài, nặng nề và lạnh lắm “Đôi khi nghe cái quen nghe mà rợn – Chó sủa từ không thành có… đêm dài”  (Tiếng đêm). Nguyễn Khắc Thạch viết về thời gian khá hay và rất sâu. Theo anh, nó là khí cụ hiệu nghiệm để đong lường kiếp sống của chúng ta:
Ngày là kim chỉ thời gian
dại khờ khâu vá khôn ngoan kiếp người
ngày là lưỡi hái lường chơi
mỗi ngày liếm một mảng đời như không.
                                                           
 (Ngày)
Em chờ anh
sau mặt phẳng thời gian cuốn chiếu
hồn đá vọng phu
nửa thừa mang tang nửa thiếu
                                                (Hoài vọng)
Thời gian như cái thùng bia
Rót vào cốc chén là chia tháng ngày

Không gian như nắm bàn tay
mở ra cầm chốn lưu đày bể dâu

Người ta vói mắc hai đầu
Thả mồi bong bóng mà câu… chính mình
                                                           
(Ngộ)

Chừng ấy đủ biết Nguyễn Khắc Thạch là người đang bệnh! Anh mắc chứng đa cảm trầm kha. Thà bị bệnh ở thể xác còn hơn bệnh ở tâm hồn. Bệnh tật của tâm hồn còn đáng sợ hơn bệnh tật của thân thể. Thân bệnh có thể nhờ người khác chữa dùm, nhưng tâm bệnh phải chính mình chữa lấy. Chúng tôi thấy Nguyễn Khắc Thạch cũng đang tự chữa cho mình rồi đấy. “Những căn bệnh tuyệt vọng cần những liều thuốc tuyệt vọng” (Ngạn ngữ Anh). Điều chính yếu trong cuộc đời là không nên than vãn điều gì và không bao giờ nhìn lại những đổ vỡ phía sau.
Nguyễn Khắc Thạch có một bài thơ thuộc hàng kiệt tác khi anh viết về tình yêu đơn phương. Ngọc toàn bích không hề gợn một chút tì vết nào:
Có một dòng sông mang tên em,
Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền

Có một dòng sông  trôi vào lãng quên
nước trong như nước mắt
điều chưa đến mà sao thấy mất

Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bên kia quay mặt
dòng sông anh không qua được bao giờ.
                                                (Dòng sông một bờ)
Tiếp tục lối tư duy đó, Nguyễn Khắc Thạch mạnh bạo, phóng túng và quả quyết phá vỡ cấu tứ niêm luật truyền thống, làm cho cổ điển và tự do hài  hoà vào nhau tạo nên một từ trường mới bằng một thi pháp mới:
Hồn của mưa làm lạnh cơn mưa xác
khiến cơn mưa đồng loã giọt buồn
để em thấy mưa là nước mắt

Những cơn mưa tái sinh màu đất
những cơn mưa thuỷ táng khung trời
để em thấy mưa là hai mặt

để em thấy mưa là chia cắt
phía thành sông vẫn chảy rẽ chia bờ
để em thấy mưa không dập tắt
cõi mật tinh lửa vẫn cháy trong mơ…
                                                (Mưa hai mặt)
Từ thi pháp hiện đại đó, Nguyễn Khắc Thạch rất có ý thức lập tứ cho từng bài thơ, từng câu thơ, dựng lên được xương cốt vững chãi cho toàn bài thơ. Thử xem, anh đã khắc đá được một chân dung tính cách chân xác nhờ cung cách đó như thế nào:
Ông vốn trắng tay không chải đầu bằng lược
Cái đầu nhà thơ đâu cần sự ve vuốt nào
Ông nuôi rượu canh giữ lòng trung thực

Và ông đã nhặt được chính mình từ những thứ đem cho
Có nỗi đau ngoài tầm nước mắt
Cánh chim cô đơn khi vượt trước bầy đàn.
… Ông đã vớt thơ ra khỏi sóng đời mình…
                                               
(Trích ngang Phùng Quán)

Thơ Nguyễn Khắc Thạch ánh lên chất mỉa mai, phúng thích thói đời và những mặt trái của đời sống xã hội để người đọc nhận thức nó, thấm thía phẫn nộ vì nó:
Ai đã thấy những gì cao hơn các tượng đài
Những gì sâu hơn đáy cốc trên bàn tiệc
Ai đã lấy ngực che Tổ quốc?
Còn ai đem Tổ quốc che thân?
                                    (Những câu hỏi bâng quơ)
Khi niềm tin ta đã đóng đinh
thì cây thánh giá kia
cần chi phơi hình Chúa

Sự thật là thanh gươm lành trong vỏ
nhưng rút ra rồi…nó đau đớn biết bao.
                                                           
(Trả giá)
Một số nhà thơ cả trẻ lẫn già bây giờ ưa chạy theo thi pháp hình thức mà lờ đi thi pháp nội dung. Họ chỉ tạo ra những cách nói lạ tai nhưng vô nghĩa. Nguyễn Khắc Thạch quan tâm cân đối cả hai. Những đoạn thơ vừa dẫn trên  rất dân tộc và cũng khá hiện đại. Thi pháp ấy súc tích đến mức đã tạo ra những khoảng lặng cho người đọc ngẫm nghĩ.
Cây lá tự rứt mình trả nợ đất đai
Câu thơ rứt nỗi buồn chết không thành xác
Cuộc vay trả quy đồng cỏ rác
Rợn lối mòn ảo giác mùa thu.
                                   
(Ảo giác mùa thu)
Cá tính sáng tạo thơ tạo nghĩa với hai yếu tố triết và thiền của Nguyễn Khắc Thạch mạnh, hình thành nên bản lĩnh thơ. Các thi phẩm của anh đều mang dấu ấn hiện đại, nhân bản.
Giữa hai dòng thơ “phấn son” và thơ “lem luốc”, thơ Nguyễn Khắc Thạch thuộc dòng thứ hai.
“Thảy vốn liếng đời ta nhóm lửa yêu thương”, Nguyễn Khắc Thạch đã huy động óc tim cùng với “âm bản của nước mắt”, phát giác bề sâu sự vật, chế tạo được thứ cốt mìn chứa đầy buồn đau và trách nhiệm đang “nổ tung những nhịp thơ đá vỡ” (chữ của Nguyễn Trọng Tạo).
                                                                                                            T.D.H

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).