Nguyễn Khắc Thạch - người đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật

10:48 12/09/2008
THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

Như chàng “vệ sĩ của đêm đen” (chữ dùng của Ngô Minh). Nguyễn Khắc Thạch là người trầm tư trước cuộc đời, phán xét sự vật đến tận cùng bản chất, anh can đảm “hôn xác chết”, tự tin, lặng lẽ đối đầu với chúng. Đứng chênh vênh một chân bên dòng sông một bờ, Nguyễn Khắc Thạch rụt rè tường trình lại khá sắc bén và chọn lựa những phát hiện mới lạ về cõi người hiện sinh, chỉ ra những nguyên cớ đang huỷ hoại nhân tính làm tan rã các kỷ cương giường mối xã hội.
Thời tôi sống ruồi nhặng sành mâm cỗ
họ hàng tôm vẫn lộn đít lên đầu
chó ngoại hết hời ra kiếm ăn hè phố
trẻ bụi đời lòng cạn mắt sâu.

Thời tôi sống vô cảm điều trông thấy
dọc đường quan mặt nạ mặt tiền
những thầy tu hành đạo trên xe máy
hẳn đường về cõi Lạc có gần hơn.

Thời tôi sống giấc mơ vàng ô nhiễm
trọc phú lập loè như đom đóm ma trơi
tôi ươm bạc chay thiền phù phiếm
anh tinh đời vờ một gã ham chơi.

Thời tôi sống thương mình trơ cá gỗ
nỏ tơi mang mà chẳng áo công hầu
đất của cỏ thì trời cao gác trọ
sợ miếng mồi như cá sợ mắc câu.

Thời anh sống khác thời tôi sẽ viết
sống thời tôi chín dễ nên mười          
nhưng không dễ sống mà không biết
sống mà nghi mình có phải là người.
                                                     
(Gửi Nguyễn Trọng Tạo)
Sự bất lực trước đấng cao xanh, vĩnh hằng, nỗi cuồng say dâng hiến, bước đam mê gập ghềnh kiếm tìm nửa kia trong tình yêu, cái đẹp lao đao bởi thương tích đầy mình, tự do bị bắt chẹt, “những khoảng trống lương tri bị dối lừa”… đã dẫn đến những vỡ mộng, con người rơi vào cõi mênh mông buồn “Ta chẳng có gì ngoài ta – ngoài chẳng là gì trong ta – áo cơm bờm xơm vỗ mặt – hư danh cầm cố thi ca” (Tự khúc). Thơ Nguyễn Khắc Thạch buồn, mang mang nỗi buồn trước hy vọng và tuyệt vọng, trước nỗi quay quắt của áo cơm cùng sự khủng hoảng đức tin, trước sự dấn thân trong nước mắt tủi hờn đầy kiêu hãnh. Chẳng riêng gì Thạch, Cụ Nguyễn Du xưa cũng đã từng than “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Những mối hận xưa nay khó mà hỏi trời được). Người ta khổ vì có trí tuệ, Thạch khổ vì biết quá nhiều! Anh gọi nỗi buồn về nhận mặt, bóc trần nó ra cho mọi người thấy. Nhà thơ không ngồi nhấm nháp tận hưởng thú đau thương như Lưu Trọng Lư, anh thành khẩn nhìn thẳng vào nỗi buồn để nhận diện chính mình và mọi lẽ quan thiết khác ở đời. Cuộc tìm kiếm mình là một hành trình khổ ải “Ta mang lỗi lầm của máu không đổi màu - Sự nhức nhối thời gian hoá thạch” (Nơi ta sẽ về). Năng lượng cảm thức sâu sắc của nhà thơ đã thuyết phục được chúng ta. Chính vì vậy, đến với thơ Nguyễn Khắc Thạch đòi hỏi ở bạn đọc ít nhiều đồng điệu.
Đầu này một chiếc dép
chỉ một chiếc dép đầu này
mà đầu kia phải lệch
mà đầu kia là cả… không gian
                                      (Bồ Đề Đạt Ma)
Đắng cay nào đắng cay hơn:
Tôi như gã tín đồ bị rút phép thông công
khi thiên đàng dang ngang sợi tóc
em soi vào tôi gương mặt người đàn ông khác
em chỉ sống vì tôi khi đã chết cho người
                                                            (Mặc cảm)
Có nỗi đau nào đau hơn:
Ta ngồi dại hoá đôi khi
Thèm đau lần nữa những gì đã đau
                                               
(Gửi trăng)
Khi thịnh cần cẩn trọng, khi suy cần nhẫn nại. Mọi con đường phần cuối giống nhau, chỉ khác nhau phần đầu. Điều trọng yếu là phải biết sử dụng đời sống, chứ không than vãn để kéo dài tuổi sống. Mặc dù thế giới đầy khổ ải, song cũng đầy những tấm gương vượt qua bể khổ ấy bằng chính con thuyền thơ mỏng manh của mình.
“đứa con hoang của mọi tín điều…”, thi nhân trở dạ làm thơ trong tâm thế ấy. Mạch thơ sám hối, trầm uất lung linh lan toả phản ánh sự chiêm quan khắc khoải, quằn quại bởi roi vọt tai ương và giàn giụa nước mắt cô độc. Giống như chúa Giêsu lê nặng cây thánh giá. Nguyễn Khắc Thạch oằn lưng vác nỗi khổ đau của đời người “Anh cứ đi như chiếc bóng giữa đời – Mong tìm được những gì không mất”.  Nhà thơ phơi trần góc khuất tâm linh, chiếu rọi ánh sáng lương tri lương năng để phục sinh mình. Thơ Thạch được thai nghén trong sự tuyệt vọng “anh như xác vỏ chai lăn ra ngoài cuộc rượu” để sinh hạ ra những đứa con của sinh tồn.Trong một chừng mực nào đó, cảm quan của nhà thơ thiếu sáng, có lúc duy lý đến phũ phàng:
Tôi say lấp chiều lỗi hẹn
có như không là gió là lời
đêm cất vó tang bồng tơ nhện
đom đóm lập loè vỗ mặt trêu ngươi
           
Tôi say sấp chiều đêm rơi
ngõ buồn khê ngọt đường hoa trái
Rồi sẽ đắng người ơi khi tỉnh lại
thấy những điều giả dối trong nhau
                                                  (Ẩn ức)
Mở mặt chào cơm áo
Ôm lòng buốt ngọc châu
Mắt chiều vô tôn giáo
Nhắm linh hồn vào đâu.
                                   
(Tứ thơ)
Thơ Nguyễn Khắc Thạch hút người bằng tâm tình kín đáo, là tiếng vọng của nỗi buồn thấm, cao khiết, trang trọng.
Trời tròn lưng bánh tét
Đất vuông lòng bánh chưng
Dân nghèo thương ngày tết
Gói đất trời rưng rưng.
                                      
(Gói)
Biển như ngân giữa hồn tôi
Câu thơ nghiêng biển nghiêng trời là em
                                                            (Biển và em)
Nhà thơ luôn sống một thế giới ảo:
Có một mùa hè mắc cỡ
Cỏ hoang neo gió sững sờ
Lá bàng rơi nung lửa nhớ      
Đài sen rụng vỡ hương mơ
                                      (Kí ức)
Xuân biên giới với nét cọ phác thoáng đẹp đến thắt lòng :
Nơi ấy xuân về sớm hơn
Nắng trở mình phơi mái núi
Rừng già loà xoà bóng tuổi
Vội xanh lại mé đông tàn.
                                     
(Biên giới)
Nhà thơ đằm mình trong sự chiêm nghiệm, suy tưởng đến kiệt cùng:
Hạt mưa cứ ngỡ của trời
Ai ngờ đất khát vẽ vời làm mưa
Nối bây giờ với xa xưa
Biết mưa còn nối bây giờ - mai sau?
Hạt mưa tan vỡ vì nhau
Hình như mưa cũng đổi màu buồn vui.
                                                            (Mưa)
Nỗi buồn đó của Nguyễn Khắc Thạch mang một hình thái cứu rỗi. “Loại thơ cao siêu luôn hướng tới sự bất tử trong nỗi thống khổ của con người”. Từ mấy thế kỷ trước, Vonter đã chỉ ra như thế.
Thơ Nguyễn Khắc Thạch được nuôi dưỡng bằng một thứ tình yêu trần trụi, máu thịt nên kiệm lời, tứ đúc, ý tưởng dồn nén trong từng câu chữ. Nó là một thứ văn bia tác động đến tư duy trước, truyền mỹ cảm đến sau.
Bên thềm hoang
thiếu phụ
thoát y nằm
Ngọn nến cháy
sau vầng trăng khuyết…
                                    (Thiền)
Người qua đêm mang đêm đi xa
Đêm thắp nến hàn trăng lữ thứ
Đêm thấm khát màu son trinh nữ
Để tái sinh cho huỷ diệt sau cùng…
                                                (Đêm)
Nhà thơ sống trong linh giác mùa thu “Nắng thun chiều gió úa cài then”; sống trong cơn uất ức “biên chế cõng mấy nhà thơ tầng trệt – ăn nói cao hơn tầm thước con người” (Gửi Nguyễn Trọng Tạo); sống trong tâm trạng níu kéo sợ hãi “Muốn ôm chặt chiều - Chiều lại ngả vào đêm” (Chiều), bởi nhà thơ đinh ninh rằng mình đã bị lừa dối ngọt ngào “Tôi đi dọc tháng năm thừa – cô đơn úp mặt dối lừa cô đơn” (Gửi Nhật Lệ), Tín nghĩa bị xâm phạm, nhà thơ thắc mắc đến cái “đức tin có bảo hành – và chỗ dựa có đức tin - chỉ là những gì mong manh hư ảo” (Ý tưởng). Nhà thơ hoài nghi “chiếc mặt nạ hài hước - sự thật trở nên tàn nhẫn hơn”. Nhà thơ buồn vì “bao giờ con người cũng là một thực thể kép - ước vọng thì đầy nhớ tiếc thì vơi” (Thông cảm). Nguyễn Khắc Thạch luôn mặc cảm coi mình là kẻ đang lâm nạn “anh bị chém bằng lưỡi rìu ngôn ngữ - những đổ vỡ hư danh như hoàng hôn bầm dập đáy chiều - bức tranh món ăn không no được bụng - hiện thực cục cằn như kẻ đói yêu…” (Hiện thực). Không có gì làm ta cao thượng bằng một niềm đau khổ  lớn lao. Trông cây mà ngẫm đến mình “Thấy thương cây cũng cụt đầu vì cao” (Với cây). Người ta thường căm ghét những gì làm họ sợ. Và, chết là sự giải thoát cho kiếp người “Áo cơm thôi sấp ngửa – Hương khói còn so đo - Những gì thắp được lửa - Rốt cùng đều thành tro” (Viếng mộ). Nhà thơ lại ngồi ước gì được quay về cái hồi  “Mải chơi tiền lá rụng đầy tuổi mơ”, mong lấy lại niềm tin xanh “Nơi cây cỏ trinh niềm hoang dã - mỗi bước đi qua xanh mãi thuở ban đầu”. Một người phải chờ đợi, thời gian dài, nặng nề và lạnh lắm “Đôi khi nghe cái quen nghe mà rợn – Chó sủa từ không thành có… đêm dài”  (Tiếng đêm). Nguyễn Khắc Thạch viết về thời gian khá hay và rất sâu. Theo anh, nó là khí cụ hiệu nghiệm để đong lường kiếp sống của chúng ta:
Ngày là kim chỉ thời gian
dại khờ khâu vá khôn ngoan kiếp người
ngày là lưỡi hái lường chơi
mỗi ngày liếm một mảng đời như không.
                                                           
 (Ngày)
Em chờ anh
sau mặt phẳng thời gian cuốn chiếu
hồn đá vọng phu
nửa thừa mang tang nửa thiếu
                                                (Hoài vọng)
Thời gian như cái thùng bia
Rót vào cốc chén là chia tháng ngày

Không gian như nắm bàn tay
mở ra cầm chốn lưu đày bể dâu

Người ta vói mắc hai đầu
Thả mồi bong bóng mà câu… chính mình
                                                           
(Ngộ)

Chừng ấy đủ biết Nguyễn Khắc Thạch là người đang bệnh! Anh mắc chứng đa cảm trầm kha. Thà bị bệnh ở thể xác còn hơn bệnh ở tâm hồn. Bệnh tật của tâm hồn còn đáng sợ hơn bệnh tật của thân thể. Thân bệnh có thể nhờ người khác chữa dùm, nhưng tâm bệnh phải chính mình chữa lấy. Chúng tôi thấy Nguyễn Khắc Thạch cũng đang tự chữa cho mình rồi đấy. “Những căn bệnh tuyệt vọng cần những liều thuốc tuyệt vọng” (Ngạn ngữ Anh). Điều chính yếu trong cuộc đời là không nên than vãn điều gì và không bao giờ nhìn lại những đổ vỡ phía sau.
Nguyễn Khắc Thạch có một bài thơ thuộc hàng kiệt tác khi anh viết về tình yêu đơn phương. Ngọc toàn bích không hề gợn một chút tì vết nào:
Có một dòng sông mang tên em,
Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền

Có một dòng sông  trôi vào lãng quên
nước trong như nước mắt
điều chưa đến mà sao thấy mất

Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bên kia quay mặt
dòng sông anh không qua được bao giờ.
                                                (Dòng sông một bờ)
Tiếp tục lối tư duy đó, Nguyễn Khắc Thạch mạnh bạo, phóng túng và quả quyết phá vỡ cấu tứ niêm luật truyền thống, làm cho cổ điển và tự do hài  hoà vào nhau tạo nên một từ trường mới bằng một thi pháp mới:
Hồn của mưa làm lạnh cơn mưa xác
khiến cơn mưa đồng loã giọt buồn
để em thấy mưa là nước mắt

Những cơn mưa tái sinh màu đất
những cơn mưa thuỷ táng khung trời
để em thấy mưa là hai mặt

để em thấy mưa là chia cắt
phía thành sông vẫn chảy rẽ chia bờ
để em thấy mưa không dập tắt
cõi mật tinh lửa vẫn cháy trong mơ…
                                                (Mưa hai mặt)
Từ thi pháp hiện đại đó, Nguyễn Khắc Thạch rất có ý thức lập tứ cho từng bài thơ, từng câu thơ, dựng lên được xương cốt vững chãi cho toàn bài thơ. Thử xem, anh đã khắc đá được một chân dung tính cách chân xác nhờ cung cách đó như thế nào:
Ông vốn trắng tay không chải đầu bằng lược
Cái đầu nhà thơ đâu cần sự ve vuốt nào
Ông nuôi rượu canh giữ lòng trung thực

Và ông đã nhặt được chính mình từ những thứ đem cho
Có nỗi đau ngoài tầm nước mắt
Cánh chim cô đơn khi vượt trước bầy đàn.
… Ông đã vớt thơ ra khỏi sóng đời mình…
                                               
(Trích ngang Phùng Quán)

Thơ Nguyễn Khắc Thạch ánh lên chất mỉa mai, phúng thích thói đời và những mặt trái của đời sống xã hội để người đọc nhận thức nó, thấm thía phẫn nộ vì nó:
Ai đã thấy những gì cao hơn các tượng đài
Những gì sâu hơn đáy cốc trên bàn tiệc
Ai đã lấy ngực che Tổ quốc?
Còn ai đem Tổ quốc che thân?
                                    (Những câu hỏi bâng quơ)
Khi niềm tin ta đã đóng đinh
thì cây thánh giá kia
cần chi phơi hình Chúa

Sự thật là thanh gươm lành trong vỏ
nhưng rút ra rồi…nó đau đớn biết bao.
                                                           
(Trả giá)
Một số nhà thơ cả trẻ lẫn già bây giờ ưa chạy theo thi pháp hình thức mà lờ đi thi pháp nội dung. Họ chỉ tạo ra những cách nói lạ tai nhưng vô nghĩa. Nguyễn Khắc Thạch quan tâm cân đối cả hai. Những đoạn thơ vừa dẫn trên  rất dân tộc và cũng khá hiện đại. Thi pháp ấy súc tích đến mức đã tạo ra những khoảng lặng cho người đọc ngẫm nghĩ.
Cây lá tự rứt mình trả nợ đất đai
Câu thơ rứt nỗi buồn chết không thành xác
Cuộc vay trả quy đồng cỏ rác
Rợn lối mòn ảo giác mùa thu.
                                   
(Ảo giác mùa thu)
Cá tính sáng tạo thơ tạo nghĩa với hai yếu tố triết và thiền của Nguyễn Khắc Thạch mạnh, hình thành nên bản lĩnh thơ. Các thi phẩm của anh đều mang dấu ấn hiện đại, nhân bản.
Giữa hai dòng thơ “phấn son” và thơ “lem luốc”, thơ Nguyễn Khắc Thạch thuộc dòng thứ hai.
“Thảy vốn liếng đời ta nhóm lửa yêu thương”, Nguyễn Khắc Thạch đã huy động óc tim cùng với “âm bản của nước mắt”, phát giác bề sâu sự vật, chế tạo được thứ cốt mìn chứa đầy buồn đau và trách nhiệm đang “nổ tung những nhịp thơ đá vỡ” (chữ của Nguyễn Trọng Tạo).
                                                                                                            T.D.H

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

  • ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")

  • NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

  • NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.

  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.