Nguyễn Bính và chùm thơ viết tại Huế

09:40 31/08/2016

KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH (1966 - 2016)

MAI VĂN HOAN



Nhà thơ Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, quê Thiện Vịnh (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Mẹ ông mất khi “chưa kịp bạc đầu”. Thuở nhỏ, ông không học ở trường mà chỉ học với cha và cậu. 10 tuổi, ông được người anh trai là nhà thơ Trúc Đường sinh sống ở thị xã Hà Đông kèm cặp. 17 tuổi, ông ra mắt tập thơ đầu tay Tâm hồn tôi, đoạt giải thưởng của Tự lực Văn đoàn và bắt đầu nổi tiếng từ đó. Nguyễn Bính là tác giả của hàng trăm thi phẩm được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Theo Tô Hoài thì ông là một “tài thơ bẩm sinh”.

Cũng như nhà văn Nguyễn Tuân, thời trai trẻ Nguyễn Bính rất thích xê dịch. Ông từng “lăn lóc có dư mười mấy tỉnh”. Hầu như nơi nào từng đặt chân đến ông đều có thơ để lại. Năm 1940, Nguyễn Bính cùng Tô Hoài và Vũ Trọng Can rủ nhau đi vào Huế theo lời mời của một mạnh thường quân. Tô Hoài chỉ lưu lại Huế trong thời gian ngắn còn Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can thì “bám trụ” ở Cố đô gần nửa năm trời để dàn dựng và công diễn vở kịch thơ Bóng giai nhân (với sự cộng tác đắc lực của thi sĩ Yến Lan). Vị mạnh thường quân tạo điều kiện cho ba thi sĩ công diễn Bóng giai nhân trên một vài sân khấu ở Huế. Tiếc là khán giả ngày một thưa vắng. Ba thi sĩ lâm vào tình cảnh “nợ nần như Chúa Chổm” đành phải ngậm ngùi chia tay với Huế. Yến Lan vào lại Bình Định còn Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can thì trở ra Hà Nội. Nhưng chính nhờ gần nửa năm “nằm mốc” ở Cố đô mà Nguyễn Bính có được một chùm thơ viết về Huế, bài nào cũng đặc sắc, trong đó phải kể đến Xóm Ngự Viên, Giời mưa ở Huế Một con sông lạnh.

Theo hồi ký của nhà văn Tô Hoài: Lúc mới vào Huế, vị mạnh thường quân sắp xếp cho ba người ở ngôi nhà trọ ngay xóm Ngự Viên (trên trục đường Ngự Viên, thuộc phường Phú Cát bây giờ). Qua sách vở, Nguyễn Bính được biết xóm Ngự Viên trước đây vốn là vườn Thượng Uyển: “Cung tần mỹ nữ ngời son phấn/ Theo gót nhà vua nở gót sen/ Hương đưa bát ngát ngoài trăm dặm/ Cung nữ đa tình vua thiếu niên”. Tác giả đối sánh quá khứ và hiện tại qua nghệ thuật sắp đặt. Quá khứ hết sức tao nhã. Nào là: “ngời son phấn”, “nở gót sen”, “hương đưa bát ngát”… Còn hiện tại thì hết sức tàn tạ với “giậu đổ, dây leo”, “xóm vắng, rêu xanh”, hoa tàn, lá rụng… Cái cảnh “gieo cầu” của các nàng tôn nữ thời xưa ở vườn Thượng Uyển được Nguyễn Bính tái hiện lại rất nên thơ: “Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ/ Ngựa bạch buông chùng áo trạng nguyên/ Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó/ Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên…”. Cảnh tượng thật lãng mạn: “Lòng Trạng lâng lâng màu phú quí/ Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên/ Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy/ Nghiêng cả mùa xuân, Trạng ngước nhìn…”. Thơ Nguyễn Bính vốn bình dị, dân dã nhưng khi cần cũng hết sức quý phái, cao sang. Cái “màu phú quý” và “nghiêng cả mùa xuân” là cách nói khá độc đáo của thi sĩ. Đối lập với quá khứ phồn hoa là một hiện tại hổ lốn, nhếch nhác: “Nhà cửa xúm nhau thành một xóm/ Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men/ Mụ vợ bắc nam người tứ xứ/ Anh chồng tay trắng lẫn tay đen”. Đạo đức suy thoái một cách trầm trọng: Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa. Những nàng tôn nữ đài các ngày xưa bây giờ ngồi cặm cụi đan từng chiếc áo. Văn hóa cung đình đã trở nên bát nháo; “khúc Hậu đình hoa” sang trọng như thế giờ đem “hát tự nhiên”. Tiếng “nhạc ngựa vang lừng” không còn nữa, chỉ còn lại “nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng”. Nghe và thấu hiểu được tiếng cú “nhọc nhằn” thì quả là chỉ có tài thơ như Nguyễn Bính. Bằng trí tưởng tượng vô cùng phong phú, thi sĩ đã làm sống lại những nét văn hóa cung đình tôn nghiêm, trang nhã của đất Cố đô vốn đã bị mai một theo thời cuộc và thời gian. Ở bài thơ Xóm Ngự Viên, có tiếc nuối nhưng không hẳn là hoài cổ mà chủ yếu là “nỗi đau đớn lòng” trước cảnh “bãi bể nương dâu”. Bởi vậy, chúng ta hiểu vì sao tác giả đang ở ngay xóm Ngự Viên mà lại “nhớ Ngự Viên”! Ngự Viên chỉ là cái cớ để tác giả bày tỏ nỗi “đau đớn lòng” của mình trước tình cảnh đất nước. Đây là trường hợp hiếm hoi trong phong cách thơ Nguyễn Bính: chất trữ - tình - thế - sự lấn át chất trữ - tình - riêng - tư. Xóm Ngự Viên cũng là một trong những bài thơ hiếm hoi được viết theo lối độc vận và cái tôi được ẩn vào nhân vật “du khách”. Mặc dù vậy, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra vị du khách mang “nỗi buồn sông núi” đó không ai khác mà chính là thi sĩ Nguyễn Bính.

Cũng viết theo lối độc vận nhưng so với Xóm Ngự Viên thì bài Giời mưa ở Huế ra đời muộn hơn. Đó là thời điểm tác giả rời xa Hà Nội “bốn tháng hình như kém mấy ngày”. Nếu Xóm Ngự Viên Nguyễn Bính ẩn mình qua nhân vật du khách thì Giời mưa ở Huế tác giả không chỉ bộc lộ tâm trạng của mình mà còn nói hộ nỗi lòng cho cả người bạn đang “nằm mốc” ở Huế cùng với mình. Huế nổi tiếng với núi Ngự, sông Hương, với những đền đài, lăng tẩm. Huế còn nổi tiếng về mưa. Cả nước ai cũng biết mưa Huế. Người Huế quá thấm thía cái mùa mưa của xứ sở mình. Nguyễn Bính sống ở Huế vào đúng mấy tháng mùa mưa. Điệp khúc “Giời mưa ở Huế sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra đến mấy ngày” láy đi láy lại đã phần nào diễn tả được những cơn mưa triền miên, dai dẳng, lê thê của Huế. Điệp khúc ấy tạo nên âm hưởng thật đặc biệt. Cảm giác tụ đọng, quanh quẩn, ẩm ướt, chán ngán cũng bắt đầu từ điệp khúc ấy. Trên cái nền mưa triền miên, dai dẳng, lê thê rả rích... là tâm trạng tha hương của thi sĩ. Còn nhớ, lúc tôi đang trú trên căn phòng “như tổ chim treo” ở trường Đồng Khánh, khi hơi men đã ngấm, tôi rưng rưng đọc Giời mưa ở Huế, Hoàng Vũ Thuật, Ngô Minh, Hải Kỳ cùng đọc theo như một dàn đồng ca. Rồi những chiều Bến Ngự sầu nghiêng mái quán mưa tong tả, đã biết bao lần chúng tôi: “Tỉ tê gợi tới niềm tâm sự/ Cúi mặt soi gương chén rượu đầy/ Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ/ Đôi lòng hòa một vị chua cay…”. Những câu thơ như thế chỉ cần đọc lên là đã nổi da gà. Nó ngấm vào lòng, vào tim, vào gan như những li rượu mạnh. Thi sĩ “Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh/ Để rồi nằm mốc ở nơi đây...”. Chỉ xét về phương diện sử dụng từ ngữ thì Nguyễn Bính cũng rất xứng đáng bậc thầy. Phải là người “đi khắp thiên hạ mòn gót giày, gãy bánh xe”; phải “giang hồ quen thói vẫy vùng” như Nguyễn Bính mới cảm thấy như mình đang bị mốc meo trong sự bủa vây dai dẳng của mưa Huế. Nguyễn Bính khi buồn chán thường giải khuây bằng thuốc lào. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương kể lại chuyến lên Bắc Giang gặp Bàng Bá Lân: “Chủ mời khách cùng ra đường đi dạo một lát cho tiêu cơm, đến cầu sông Thương sẽ quay về ngủ còn sớm chán. Chàng Tô (Tô Hoài) thì mãn ý quá, nhà văn thư sinh này chỉ phiêu lưu theo kiểu Dế Mèn. Còn Nguyễn Bính thì hận lắm. Đi khắp thiên hạ để tìm tri kỷ mà tri kỷ lại bảo dạo phố rồi về ngủ sớm hỏi có ức không? Thế rồi lỉnh kỉnh suốt đêm ấy, Bính cứ ngồi hút thuốc lào hoài”. Giờ đây, “nằm mốc” ở Huế trong sự bủa vây của những cơn mưa triền miên thi sĩ lại tìm đến với điếu cày: Thuốc lào hút mãi người ra khói! Hút thuốc lào đến mức “người ra khói”, tôi chưa từng nghe ai nói như thế cả! Thế mà Trường Tiền vẫn “vắng ngắt người qua lại”, Đập Đá vẫn “mênh mang bến nước đầy...”. Một chút tơ vương với cô hàng xóm cũng không thể làm cho thi sĩ khuây khỏa nỗi niềm chán ngán của mình: “Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!/ Đành phụ nhau thôi kẻo đến ngày/ Khăn gói gió đưa sang xứ lạ/ Ai cười cho được lúc chia tay?” Quá khứ nặng nề, u ám hiện ra trước mắt thi sĩ: gia đình ly tán, anh em phiêu dạt, người cũ thì “vung vãi ân tình khắp đó đây”. Thi sĩ cay đắng nhìn lại quãng đời vừa qua của mình và chua chát rút ra kết luận “sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây!” Hiếm có bài thơ nào của Nguyễn Bính giúp chúng ta hiểu về tính cách, cảnh ngộ, thân phận... của nhà thơ như Giời mưa ở Huế. Mưa Huế đã gợi lên bao nhiêu nỗi niềm, bao nhiêu tâm trạng. Giời mưa ở Huế là lời tự thú hết sức thành thực của thi sĩ. Nguyễn Bính chinh phục và tìm được sự đồng cảm rộng rãi đối với độc giả các thế hệ không chỉ bằng cái biệt tài trời phú mà còn ở sự chân thành rất mực của mình.

Cũng làm theo thể thất ngôn trường thiên nhưng ở bài thơ Một con sông lạnh Nguyễn Bính không viết theo lối độc vận như hai bài thơ trên. Đây là bài thơ ông sáng tác trước khi chia tay với Huế: Khoan đàn em hãy gắng say/ Một đêm, còn một đêm nay thôi mà... Một cuộc hội ngộ, giao lưu giữa tài tử với giai nhân. Cảnh và tình hòa quyện vào nhau chẳng khác gì Bạch Cự Dị nghe đàn tỳ bà trên bến Tầm Dương. Nhưng Bạch Cư Dị thì tỉnh để chia sẻ, để cảm thông, để đồng cảm với người phụ nữ gảy đàn, còn Nguyễn Bính thì say với tiếng đàn, với giọng ca của nàng kỹ nữ. Thi sĩ nhìn ánh nến thấy “ánh nến hoen vàng”, thi sĩ nghe tiếng đàn mà ngỡ như đang nghe tiếng vó ngựa dồn dập của quân Phiên, thi sĩ lẫn lộn giữa người thực và người trong tưởng tượng: “Ồ nàng không phải là em!” Rồi “Đừng em, quên đấy thôi nàng... Thi sĩ đắm mình trong cái trạng thái “chập chờn cơn tỉnh, cơn mê” nửa hư, nửa thực. Cho đến khi: “Đêm tàn chẳng có chiêm bao/ Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn/ Chén sầu đổ ướt tràng giang/ Canh gà bên ấy giăng sang bên này”, thi sĩ ao ước: “Lạy giời đừng sáng đêm nay/ Thuyền không cập bến tôi say suốt đời. Tác giả bỏ lửng với câu kết: “Chiêu Quân lên ngựa mất rồi!” gợi bao nỗi bâng khuâng, luyến tiếc. Bài thơ đã kết thúc nhưng chàng thi sĩ của chúng ta thì dường như vẫn chưa hề tỉnh. Vẻ đẹp Huế, con người Huế làm thi sĩ không muốn rời xa.

Nguyễn Bính đã thành người thiên cổ cách đây đúng 50 năm nhưng những vần thơ của ông viết tại Huế như vẫn còn văng vẳng đâu đây. Mỗi lần đọc lại Xóm Ngự Viên, Giời mưa ở Huế, Một con sông lạnh, tôi cứ hình dung Nguyễn Bính đang đứng trầm tư, suy ngẫm trên đường Ngự Viên, đang cùng bạn chạm cốc bên Bến Ngự và đang nâng ly rượu mời người đẹp trong con thuyền trôi lơ lửng trên dòng Hương… Xứ Huế đã gợi cho thi sĩ bao nhiêu thi tứ. Đi sâu tìm hiểu chùm thơ Nguyễn Bính viết tại Huế chúng ta không chỉ hiểu thêm tài năng thi ca, thân phận, nỗi niềm… mà còn hiểu đầy đủ hơn tình cảm sâu nặng của ông đối với đất nước, đối với xứ Huế mộng mơ.

Huế, tháng 6/2016
M.V.H  
(TCSH330/08-2016)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    (Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

  • VŨ TRỌNG QUANG

    Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:

  • GIÁNG VÂN

    Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.

  • LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.

  • Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.

  • Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.

  • Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.

  • NGUYỄN VĂN MẠNH
     
    Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng

  • MAI VĂN HOAN

    Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.

  • Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.

  • Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.

  • NHƯ MÂY

    Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ
          Trích Tự truyện “Số phận không định trước”

    Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.

  • NGÔ MINH

    Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.

  • GIÁNG VÂN

    Cầm trên tay tập thơ với bìa ngoài tràn ngập những con mắt và tựa đề “Khúc lêu hêu mùa hè”(*), một cái tựa đề như để thông báo về một cuộc rong chơi không chủ đích, và vì vậy cũng không có gì quan trọng của tác giả.

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU - PHẠM PHÚ PHONG

    Ở miền Nam trước năm 1975, những ai học đến bậc tú tài đều đã từng đọc, và cả học hoặc thậm chí là nghiền ngẫm Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ - một trong những bộ sách giáo khoa tương đối hoàn chỉnh xuất bản ở các đô thị miền Nam, cho đến nay vẫn còn giá trị học thuật, nhất là trong thời điểm mà ngành giáo dục nước ta đang cố gắng đổi mới, trong đó có việc thay đổi sách giáo khoa.