Người yêu bé nhỏ

17:21 22/01/2009
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

Miên năm nay mới lên lớp đệ lục (lớp 6), hôm nào cũng đi nép bên tôi để che ô cùng tôi và chúng tôi cùng đi bộ ngang qua những lâu đài, những cung điện đổ nát để đến trường. Thường tôi đưa Miên đến tận cửa lớp trước khi vòng quanh sân để đến lớp tôi. Vào giờ này, học sinh đang chơi trong sân trường. Miên thích được tôi đưa đi học, vì theo lời cô bé, "được đi bộ", được qua đò Thừa Phủ, ngắm sông Hương vào mùa thu. Miên Thảo là em gái của Thiệp nhưng cô bé ít thích đi chơi với anh vì tính Thiệp hay la mắng, hơn nữa Thiệp không đi cùng đường. Tôi để chiếc xe honđa ở nhà và cùng đi bộ với Miên. Chốc chốc tôi phải níu tay cô bé đi dưới ô, vì sợ cô bé hay dừng lại trước những khóm hoa dại, sẽ bị ướt. Sông Hương mùa này đầy những chùm tơ trời, nhiều khi mắc vào bánh xe đạp của người đi đường. Ngồi trên thuyền, Miên Thảo cứ hỏi tôi không ngớt, rằng ai làm ra tơ trời. Tôi trả lời để cô bé thôi hỏi, rằng chính mùa thu đã dệt nên tơ trời, theo chiều gió tơ trời thường bay từ thượng nguồn sông xuống. Miên cho rằng trên những quả núi xa xăm ấy, có xưởng dệt lụa của mùa thu. Những nàng tiên công nhân làm việc ở đấy và thường mặc áo lụa cưỡi gió qua thành phố. Bên sông Hương có nhiều cây vông dại và Miên thường chạy quanh để tìm những quả vông khô dạng như trái bí ngô. Miên thường nhặt những quả vông về nhà đòi anh Thiệp làm thành những chiếc xe chạy dọc những con đường vắng lặng trong Thành Nội. Miên thích mang theo những chiếc xe có bánh bằng trái vông ấy đến trường chơi để khoe với bạn bè. Cô bé quả quyết với mọi người rằng chiếc xe của cô chạy nhanh hơn xe ô tô của người lớn. Có hôm nghe tôi kể chuyện hoa For - get - me - not và hoa lilas trong thung lũng. Tôi bảo Miên rằng trong cổ tích của những người miền núi, thì hoa For - get - me - not là vợ chưa cưới của hoa lilas. Trong bồn hoa của nhà trường có trồng nhiều hoa For - get - me - not và Miên năn nỉ với tôi rằng khi nào tôi thấy hoa lilas ở đâu nhớ nhổ về làm quà cho cô bé.

Chúng tôi ngồi trên mạn thuyền. Nhìn những bóng trắng in trên mặt nước, tôi có cảm giác chiếc thuyền mỏng manh là một chiếc lá chở những đàn cò trắng sang sông, những con cò từ khắp bốn phương trời bay tụ về bến Thừa Phủ rồi lên chiếc lá nhờ đưa qua một bờ bến mới, để lại bay đi bốn phương trời.
Miên vẫn ngày ngày chạy theo bên cạnh tôi, liến thoắng nói đủ mọi chuyện. Tôi dặn bé đi học cần chú ý đến môn lịch sử bởi đó là chìa khoá của mọi tri thức khác. Thí dụ như giữa Tổ quốc và tình yêu, người Việt Nam đặt Tổ quốc lên trên, nhưng không vì thế mà xem nhẹ tình yêu. Vì thế nơi đền Hùng ở Phú Thọ, người ta thờ một cái giếng gọi là giếng Ngọc. Khi Trọng Thủy ăn cắp được chiếc lẫy nỏ của vua An Dương Vương và rồi nàng Mị Châu đã bị vua cha giết chết, Trọng Thuỷ liền nhảy xuống giếng này tự tử. Lạ lùng thay! những hạt ngọc sinh ra từ máu Mị Châu, khi rửa bằng nước giếng này thì “sáng rạng” ra, đó là giá trị của tình yêu. Cũng vì thế, giếng này gọi là giếng Ngọc.

Nghe tôi kể chuyện Trọng Thuỷ - Mị Châu, cô bé Miên Thảo háo hức hẳn lên:
- Anh còn chuyện nào nữa không? Cô bé cầm tay tôi run run.
- Còn nhiều. Cứ đi thật ngoan như thế này, anh sẽ kể cho mà nghe.
- Chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con lên núi xuống biển thật ra là một chuyện li dị trước khi có bộ luật li dị đầu tiên của nhân loại. Đó là một đôi vợ chống biết li dị đầu tiên trên trái đất.
- Người đời xửa đời xưa mà cũng biết li dị, anh hi?
- Và cũng biết ăn ở sòng phẳng, thành thực với nhau. Ở không hợp thì cứ việc mỗi người mỗi ngả. Con cái đã thành đạt: Người con trưởng làm vua xứ Văn Lang.
- Thế còn chuyện Lang Liêu thì sao?
- Đó là sự tích bánh chưng bánh dày. Cho đến bây giờ người Việt vẫn sùng thượng. À mà coi chừng! người ta sắp quên mất văn hóa đòn bánh tét đêm 30 Tết. Vậy là Lang Liêu chính là nhà khai sáng ra văn hóa ẩm thực của người Việt. Miên Thảo ậm ự không nhất trí:
- Hứ! Ăn uống mà cũng là văn hoá à!
- Không văn hoá thì là cái gì. Nhớ rằng người Huế có văn hoá từ khi biết ăn ớt. Cho nên các bà nội trợ gọi ớt là “đồ màu”.

Đến bến Thừa Phủ, con đò đụng đất một cái làm mọi người giật mình. Tôi dắt Miên xuống đò để lên trường, hẹn câu chuyện sang buổi khác, trước khi chia tay để Miên rẽ vào lớp, tôi còn nói to:
- Việt Nam có một thời lịch sử, một thời huyền thoại và có một thời gọi là huyền sử, để lại bao nhiêu là chuyện bí ẩn của tâm linh người Việt.
Ngày tháng trôi qua, cô bé Miên cứ chạy theo tôi, mỗi lần cô đến trường, lúc thì tôi ghé nhà đón, lúc thì gặp nhau ở ngã ba ngã tư ngoài đường. Chúng tôi quen đi về trước cửa Hiển Nhơn, vì đường ấy vắng xe, và hai bên đường những cây muối mang đầy quả, những cây sau sau thỉnh thoảng lại thả những lá đỏ dưới chân người. Cũng có những cây phượng, nhưng bây giờ không có hoa, những trái khô của chúng treo trên cành, đong đưa theo làn gió. Cuối thu, mây kết thành đàn lang thang trên trời rộng và gió se lạnh làm người ta thấy nhớ nhung một điều gì trong dĩ vãng.

Tôi cứ đưa Miên đi theo những con đường đã quen, ra cổng thành, qua đò rồi đến trường. Lần ấy tôi quen chân đi nhanh và bé Miên Thảo vẫn cặm cụi theo sau, chạy dạt ra trên bãi cỏ dưới chân thành, thỉnh thoảng ngồi xuống, hình như mải bắt châu chấu. Mấy hôm nay tôi mất ngủ, người thật mỏi mệt. Tôi đã tham gia tổ chức cách mạng. Tôi cảm thấy thông cảm hơn với đôi mắt buồn ngủ và dáng điệu lững thững của Công trong lớp học; biết đâu đêm qua cậu ta phải đưa đồng đội đi tấn công đồn bốt nào đó ở đầu thành phố. Dạo này, tình hình trở nên “hot”, tổ chức hoạt động mạnh. Tôi cũng thế, có tin chỉ vài hôm nữa, tôi phải rút lên “xanh” để tránh kế hoạch đàn áp của địch.
Thế này chắc còn lâu tôi mới về thành phố. Miên Thảo vừa kịp lớn lên và tôi sẽ cưới cô bé. Nhưng có gì để đảm bảo cho dự định ấy? Tôi không thể có một cái gì khác, ngoài việc tôi hôn em một lần. Dù em còn bé bỏng, nhưng mười năm chiếc hôn rồi sẽ lớn theo em và tâm hồn em thì sẽ sắt đá với thời gian. Ngày tôi về, chiến tranh sẽ hết, mẹ tôi sẽ mang cau trầu đến nhà Miên Thảo để xin Miên Thảo về với tôi. Cô sẽ sống cuộc đời một người chinh phụ Việt , nghĩa là sẽ biết chờ đợi. Tôi tin như thế.

Tôi gọi to tên cô, và thấy Miên đang bước rón rén trên bãi cỏ, dường như đang mải lo bắt châu chấu. Con đường tráng nhựa dài thăm thẳm dưới hai hàng cây; chỉ lác đác vài thoáng vàng và đỏ rơi xuống mặt cỏ. Vườn nhà ai có hoa Tigôn hồng và trắng đẫm ướt mưa, giống như linh hồn bé bỏng tội nghiệp của Miên Thảo. Cô bé chạy xung xăng về phía tôi. Đến chỗ tôi đứng chờ, cô bé đứng lại và đứng nép vào chân tôi. Tôi đặt chiếc dù nghiêng nghiêng để che khuất tầm mắt của người qua đường, siết chặt cô bé vào lồng ngực, rồi đột ngột hôn lên môi cô bé một cái thật sâu. Miên “hứ” một tiếng nhỏ, nín thở một chút, rồi hình như cô chợt hiểu tôi muốn gì, tôi lắng nghe đôi môi nóng bỏng và đầy đặn của cô bé động đậy dưới môi mình. Thế là từ nay giữa Miên và tôi đã thành lập một mối tương quan khác.
Dưới tán dù che nghiêng qua phía Miên, tôi sẽ hỏi Miên nho nhỏ:
- Em có hiểu không?
Dưới đôi mắt nai đen nháy như choán cả gương mặt, Miên Thảo nở một nụ cười rạng rỡ hạnh phúc, khẽ gật đầu.
- Mười năm. Em có chờ đợi được không?
Cô bé không đáp, chỉ khẽ nắm bàn tay tôi, giật giật:
- Em cấm anh hỏi điều đó. Mười năm nữa em sẽ vào đại học năm thứ ba.
Ánh mắt Miên chợt mơ màng lạ lùng. Cô bé chầm chậm bước đi bên tôi.

Mười năm, tôi về đúng kì hạn của Hiệp định Paris . Nhà cũ của tôi, sân vườn không có gì thay đổi. Phòng viết của tôi, những mảnh giấy dán trên tường, bàn viết của tôi cũng vẫn y nguyên, chỉ có cô bé Miên Thảo không còn nữa.
Mẹ tôi cho biết rằng bé Miên đã lấy chồng nhà ở tận Sài Gòn. Theo điều mẹ tôi kể thì Miên cũng có ý chờ đợi tôi. Có người nào dạm hỏi cô bé cũng vùng vằng đem đổ cả rượu và ném trầu cau với lí do là “hết chiến tranh con mới lấy chồng”. Nghe học trò cũ của tôi thuật lại khi đến trường văn khoa Sài Gòn những ngày đầu tiên, cô bé mặc toàn đồ đen, không nói chuyện với ai một lời, đứng vòng tay trong một góc phòng lặng lẽ nhìn thiên hạ. Thế thì lí do chính là mảnh giấy báo tử của đơn vị tôi báo về, nói rằng tôi đã mất liên lạc, và chắc đã hy sinh ngoài mặt trận. Tôi hiểu ngay rằng đó là một thông tin nhầm lẫn khi tôi phải đi công tác xa. Trong nhà tin rằng tôi không còn nữa nên đã nhận lời cầu hôn với một người khác.
Tôi không buồn vì dù sao Miên Thảo cũng đã có ý chờ đợi tôi.
Ở thành phố có dòng sông mơ màng này, cách tốt nhất là đừng đánh thức mọi vật đã ngủ yên, để cho nó trôi vào thiên cổ. Người Nhật Bản nói thế, và lịch sử đối với tôi, như một giấc mơ dài.
12 – 2008
H.P.N.T

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...