LÊ HUỲNH LÂM
Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.
Chúng tôi, thế hệ lớn lên sau ngày thống nhất đất nước, sau những tháng ngày khó khăn, thiếu thốn mà hậu quả chiến tranh khốc liệt để lại. Thời thanh thiếu niên của thế hệ chúng tôi được gia đình lo cho không bị đói và được đến trường là hạnh phúc biết bao. Để rồi, mỗi ngày mỗi lớn hơn về thế xác, tinh thần cũng vững chãi hơn trong cuộc sống. Chúng tôi không khỏi va chạm giữa xã hội, sự va chạm đó giúp chúng tôi gần gũi được những thế hệ đi trước mình, mà phần lớn trong họ đều gọi dịch giả Bửu Ý là thầy. Thầy Bửu Ý, trong quá trình dạy ngôn ngữ tiếng Pháp ở Đại học Sư phạm, thầy còn dịch thuật những tác phẩm lớn về văn chương của các tác giả tên tuổi trên thế giới, ngoài ra thầy còn viết về văn hóa, xã hội, âm nhạc và hội họa...
Trong thế hệ của chúng tôi, những người đi theo nghề văn trong nhà trường chưa chắc đã được đọc tác phẩm của thầy Bửu Ý. Chỉ những người học chuyên ngành tiếng Pháp và có quan tâm đến văn chương thì may ra mới có cơ hội đọc sách của thầy.
![]() |
![]() |
Do có niềm đam mê triết lý, văn chương nên suốt một thời gian dài tôi đã tìm kiếm khắp nơi những tác phẩm văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, các loại sách triết, tôn giáo... Trong cuộc săn tìm tác phẩm đó từ đầu thập niên 80, tôi may mắn gặp được nhiều tác phẩm văn học, triết học, Phật học... trong đó có những tác phẩm do thầy Bửu Ý dịch như: Nhật ký của Anne Frank do Nxb. An Tiêm ấn hành. Danh mục sách mà dịch giả Bửu Ý đã chuyển ngữ hàng chục tác phẩm văn chương nước ngoài, trong đó nhiều cuốn trở thành sách “gối đầu giường” của bao thế hệ đam mê văn chương như: Vườn đá tảng của Nikos Kazantzakis, Kẻ vô luân (l’Immoraliste), Đứa con đi hoang trở về (Le retour de l’enfant prodigue, 1907), Vỡ mộng (Isabelle, 1911), Dostoievski (Dostoievski, 1923), Bọn làm bạc giả của André Gide (Nobel 1947); Chúa tể đầm lầy (Le Roi des Aulnes, 1970) của Michel Tournier, Con lừa và tôi (Platero y yo, 1914) của Juan Ramón Jiménez (Nobel 1956); Thư gửi con tin (Lettre à un otage, 1943) của Antoine de Saint- Exupéry, Nuôi dưỡng đời mình (Nourrir sa vie), v.v.
Được biết, vào năm 1992 theo lời mời của Đại học Paris VII, giáo sư Bửu Ý sang Pháp dạy văn học Pháp một thời gian. Thầy còn là người đã có công lao rất lớn trong việc dịch thuật những tập san B.A.V.H (Đô thành hiếu cổ).
Vào thời thiếu thốn mọi thứ, từ việc ăn, sách vở, ngay cả ánh sáng điện ngày có ngày không, may mà còn có niềm say mê sách, tôi đọc từng trang một, từng cuốn sách một. Thuở đó tôi không biết thầy Bửu Ý là ai, chỉ thấy một cái tên như vậy đứng bên cạnh những tên tuổi như: Trần Phong Giao, Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Ngô Trọng Anh, Kim Định, Lê Mạnh Thác, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Phạm Công Thiện, Lê Tôn Nghiêm, Hoài Khanh, Nguyễn Hữu Hiệu, Vũ Đình Lưu, Phùng Khánh, Thái Tuấn, Trịnh Công Sơn,... những cái tên đó là danh mục tác giả một thời gian dài của tôi.
Mãi đến sau này, tôi có cơ duyên được gặp thầy, gần gũi thầy mới thấy được phong thái làm việc và phong cách sống của giáo sư, dịch giả Bửu Ý. Nhà văn Bửu Ý là một trong những người bạn rất thân với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông đã viết những tác phẩm về người bạn nhạc sĩ đặc biệt này: Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thiên tài, Tâm tình với Trịnh Công Sơn, ngoài ra thầy còn có tập Nước chảy qua cầu viết về xứ Huế đầy mộng mị, tập Ngày tháng thênh thang là những bài viết, nhận định về hội họa... Thầy Bửu Ý cũng là người ủng hộ các hoạt động tại Gác Trịnh, một ngôi nhà ấm áp tình bạn, ngập đầy kỷ niệm của “những gã lang thang”. Ngoài ra, thầy còn tổ chức những buổi diễn Ca Huế ngay tại ngôi nhà mình ở trên đường Phạm Ngũ Lão, còn được gọi là đường Hàng me.
Còn nhớ những ngày đi tìm sách cũ, nói là sách cũ nhưng giá trị đối với thế hệ tôi là rất mới, tình cờ tôi lật tập sách đã rách bìa, thấy dịch giả Bửu Ý, chưa đọc nội dung đã tràn ngập một niềm vui; rồi lật quyển khác thấy nhan đề Bắt trẻ đồng xanh do Phùng Khánh dịch, tôi sung sướng như người tìm vàng gặp được mỏ vàng... Nhiều khi lật các tạp chí cũ như: Văn, Mai, Phố Văn, Diễn Đàn, Văn Học,... tôi thấy tên Bửu Ý xuất hiện nhiều. Gần đây, tình cờ lật một tạp chí Mai trên vỉa hè sách bán ký lô, tôi thấy tên Bửu Ý bên cạnh tác phẩm hình như là Mặt trời mù, không biết trí nhớ có chính xác không, tôi đã mua về để vào kho tàng sách báo cũ. Nhớ một chiều bên dòng sông Hương, một số bạn trẻ ngoại tỉnh vây quanh thầy, những câu hỏi về văn học nghệ thuật, về các thế hệ văn nghệ tên tuổi đều được thầy giải đáp. Có bạn hỏi thầy, về tác phẩm Cõi người ta do Bùi Giáng dịch từ tác phẩm “Terre des Hommes” của văn hào Antoine de Saint-Exupéry, nụ cười hiền trên gương mặt thầy cùng với ánh mắt như trở về một thời xa vắng, thầy nói Bùi Giáng là bạn mình, việc đó mình định làm nhưng đã có bạn mình làm rồi.
Đọc sách với tâm trạng cô đơn, không còn biết gì ngoài cuốn sách, lúc đó từng chữ, từng hình ảnh, từng câu chuyện như đi vào người mình. Thời đó, để hiểu và biết thêm được văn hóa của một vùng đất khác, không gì bằng đọc sách. Những lúc bị làm phiền, tôi thường trốn vào một góc khuất quán cà phê ngồi đọc sách một mình, quên cả thời gian đang trôi qua bên ngoài.
Chính vì tấm lòng của một nhà giáo dục đúng nghĩa, một văn nhân tài hoa, uyên bác cùng với sức lao động miệt mài suốt mấy chục năm không mệt mỏi về công việc chuyển ngữ, truyền bá văn hóa, nên giáo sư, dịch giả Bửu Ý đã được Bộ Giáo dục Cộng hòa Pháp trân trọng trao tặng huân chương Cành cọ hàn lâm.
Với tôi, mỗi tác phẩm văn chương hay như một bầu trời mới, mở ra cho mình những cảm nghiệm, những cách nhìn nhân bản hơn về cuộc sống. Những tác phẩm của các tác giả: Dostoievski, Nikos Kazantzakis, Leo Tolstoy, André Gide, Juan Ramón Jiménez, Antoine de Saint-Exupéry, Gabriel Garcia Márquez,... là những cánh cửa văn chương của một thời mà người mở cửa văn chương cho thế hệ chúng tôi là những dịch giả khả kính, trong đó có thầy Bửu Ý.
L.H.L
(SDB18/09-15)
>> Bài viết cùng chuyên mục:
VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.
LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.
BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...
TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.
DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.
NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...
NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.
NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.
LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007) 1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.
TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.
BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.
TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)
TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.
HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.
THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.
TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.
LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.