Người mở cánh cửa văn chương

08:38 16/10/2015

LÊ HUỲNH LÂM

Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.

Chúng tôi, thế hệ lớn lên sau ngày thống nhất đất nước, sau những tháng ngày khó khăn, thiếu thốn mà hậu quả chiến tranh khốc liệt để lại. Thời thanh thiếu niên của thế hệ chúng tôi được gia đình lo cho không bị đói và được đến trường là hạnh phúc biết bao. Để rồi, mỗi ngày mỗi lớn hơn về thế xác, tinh thần cũng vững chãi hơn trong cuộc sống. Chúng tôi không khỏi va chạm giữa xã hội, sự va chạm đó giúp chúng tôi gần gũi được những thế hệ đi trước mình, mà phần lớn trong họ đều gọi dịch giả Bửu Ý là thầy. Thầy Bửu Ý, trong quá trình dạy ngôn ngữ tiếng Pháp ở Đại học Sư phạm, thầy còn dịch thuật những tác phẩm lớn về văn chương của các tác giả tên tuổi trên thế giới, ngoài ra thầy còn viết về văn hóa, xã hội, âm nhạc và hội họa...

Trong thế hệ của chúng tôi, những người đi theo nghề văn trong nhà trường chưa chắc đã được đọc tác phẩm của thầy Bửu Ý. Chỉ những người học chuyên ngành tiếng Pháp và có quan tâm đến văn chương thì may ra mới có cơ hội đọc sách của thầy.
 

Do có niềm đam mê triết lý, văn chương nên suốt một thời gian dài tôi đã tìm kiếm khắp nơi những tác phẩm văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, các loại sách triết, tôn giáo... Trong cuộc săn tìm tác phẩm đó từ đầu thập niên 80, tôi may mắn gặp được nhiều tác phẩm văn học, triết học, Phật học... trong đó có những tác phẩm do thầy Bửu Ý dịch như: Nhật ký của Anne Frank do Nxb. An Tiêm ấn hành. Danh mục sách mà dịch giả Bửu Ý đã chuyển ngữ hàng chục tác phẩm văn chương nước ngoài, trong đó nhiều cuốn trở thành sách “gối đầu giường” của bao thế hệ đam mê văn chương như: Vườn đá tảng của Nikos Kazantzakis, Kẻ vô luân (l’Immoraliste), Đứa con đi hoang trở về (Le retour de l’enfant prodigue, 1907), Vỡ mộng (Isabelle, 1911), Dostoievski (Dostoievski, 1923), Bọn làm bạc giả của André Gide (Nobel 1947); Chúa tể đầm lầy (Le Roi des Aulnes, 1970) của Michel Tournier, Con lừa và tôi (Platero y yo, 1914) của Juan Ramón Jiménez (Nobel 1956); Thư gửi con tin (Lettre à un otage, 1943) của Antoine de Saint- Exupéry, Nuôi dưỡng đời mình (Nourrir sa vie), v.v.

Được biết, vào năm 1992 theo lời mời của Đại học Paris VII, giáo sư Bửu Ý sang Pháp dạy văn học Pháp một thời gian. Thầy còn là người đã có công lao rất lớn trong việc dịch thuật những tập san B.A.V.H (Đô thành hiếu cổ).

Vào thời thiếu thốn mọi thứ, từ việc ăn, sách vở, ngay cả ánh sáng điện ngày có ngày không, may mà còn có niềm say mê sách, tôi đọc từng trang một, từng cuốn sách một. Thuở đó tôi không biết thầy Bửu Ý là ai, chỉ thấy một cái tên như vậy đứng bên cạnh những tên tuổi như: Trần Phong Giao, Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Ngô Trọng Anh, Kim Định, Lê Mạnh Thác, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Phạm Công Thiện, Lê Tôn Nghiêm, Hoài Khanh, Nguyễn Hữu Hiệu, Vũ Đình Lưu, Phùng Khánh, Thái Tuấn, Trịnh Công Sơn,... những cái tên đó là danh mục tác giả một thời gian dài của tôi.

Mãi đến sau này, tôi có cơ duyên được gặp thầy, gần gũi thầy mới thấy được phong thái làm việc và phong cách sống của giáo sư, dịch giả Bửu Ý. Nhà văn Bửu Ý là một trong những người bạn rất thân với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ông đã viết những tác phẩm về người bạn nhạc sĩ đặc biệt này: Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thiên tài, Tâm tình với Trịnh Công Sơn, ngoài ra thầy còn có tập Nước chảy qua cầu viết về xứ Huế đầy mộng mị, tập Ngày tháng thênh thang là những bài viết, nhận định về hội họa... Thầy Bửu Ý cũng là người ủng hộ các hoạt động tại Gác Trịnh, một ngôi nhà ấm áp tình bạn, ngập đầy kỷ niệm của “những gã lang thang”. Ngoài ra, thầy còn tổ chức những buổi diễn Ca Huế ngay tại ngôi nhà mình ở trên đường Phạm Ngũ Lão, còn được gọi là đường Hàng me.

Còn nhớ những ngày đi tìm sách cũ, nói là sách cũ nhưng giá trị đối với thế hệ tôi là rất mới, tình cờ tôi lật tập sách đã rách bìa, thấy dịch giả Bửu Ý, chưa đọc nội dung đã tràn ngập một niềm vui; rồi lật quyển khác thấy nhan đề Bắt trẻ đồng xanh do Phùng Khánh dịch, tôi sung sướng như người tìm vàng gặp được mỏ vàng... Nhiều khi lật các tạp chí cũ như: Văn, Mai, Phố Văn, Diễn Đàn, Văn Học,... tôi thấy tên Bửu Ý xuất hiện nhiều. Gần đây, tình cờ lật một tạp chí Mai trên vỉa hè sách bán ký lô, tôi thấy tên Bửu Ý bên cạnh tác phẩm hình như là Mặt trời mù, không biết trí nhớ có chính xác không, tôi đã mua về để vào kho tàng sách báo cũ. Nhớ một chiều bên dòng sông Hương, một số bạn trẻ ngoại tỉnh vây quanh thầy, những câu hỏi về văn học nghệ thuật, về các thế hệ văn nghệ tên tuổi đều được thầy giải đáp. Có bạn hỏi thầy, về tác phẩm Cõi người ta do Bùi Giáng dịch từ tác phẩm “Terre des Hommes” của văn hào Antoine de Saint-Exupéry, nụ cười hiền trên gương mặt thầy cùng với ánh mắt như trở về một thời xa vắng, thầy nói Bùi Giáng là bạn mình, việc đó mình định làm nhưng đã có bạn mình làm rồi.

Đọc sách với tâm trạng cô đơn, không còn biết gì ngoài cuốn sách, lúc đó từng chữ, từng hình ảnh, từng câu chuyện như đi vào người mình. Thời đó, để hiểu và biết thêm được văn hóa của một vùng đất khác, không gì bằng đọc sách. Những lúc bị làm phiền, tôi thường trốn vào một góc khuất quán cà phê ngồi đọc sách một mình, quên cả thời gian đang trôi qua bên ngoài.

Chính vì tấm lòng của một nhà giáo dục đúng nghĩa, một văn nhân tài hoa, uyên bác cùng với sức lao động miệt mài suốt mấy chục năm không mệt mỏi về công việc chuyển ngữ, truyền bá văn hóa, nên giáo sư, dịch giả Bửu Ý đã được Bộ Giáo dục Cộng hòa Pháp trân trọng trao tặng huân chương Cành cọ hàn lâm.

Với tôi, mỗi tác phẩm văn chương hay như một bầu trời mới, mở ra cho mình những cảm nghiệm, những cách nhìn nhân bản hơn về cuộc sống. Những tác phẩm của các tác giả: Dostoievski, Nikos Kazantzakis, Leo Tolstoy, André Gide, Juan Ramón Jiménez, Antoine de Saint-Exupéry, Gabriel Garcia Márquez,... là những cánh cửa văn chương của một thời mà người mở cửa văn chương cho thế hệ chúng tôi là những dịch giả khả kính, trong đó có thầy Bửu Ý.

L.H.L
(SDB18/09-15)

>> Bài viết cùng chuyên mục:






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN VĂN DẬT Tiếp theo kỳ trước (Sông Hương số 16-85)

  • LTS: Đoạn trích dưới đây nằm trong cuốn sách “Sauvenirs de Hue” (Hồi ký về Huế) do tác giả người Pháp Michel Đức Chaigneau viết vào năm 1867. Ông sinh ở Huế năm 1803 và mất ở Pháp năm 1894, trừ một thời gian trở về nước Pháp, ông đã sống ở Huế 21 năm.

  • HOÀNG TRUNG THÔNGAnh Hải Triều Nguyễn Khoa Văn sống một cuộc đời đấu tranh cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Tôi được đọc anh từ những bài viết chống nghệ thuật vị nghệ thuật, chống duy tâm và cả lý thuyết cho rằng nước ta không có chế độ phong kiến.

  • LTS: Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Đạm Phương nữ sử (1881- 2011), 85 năm ra đời Nữ Công Học hội Huế (15.6.1926 - 15.6.2011) do bà Đạm Phương sáng lập, ngày 18.6 tới đây, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế và Viện Văn học Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Đây là cuộc hội thảo về Đạm Phương nữ sử lần đầu tiên, và được tổ chức ngay tại Huế, quê hương của Bà.

  • PHAN VĂN DẬT Một ngày dựa mạn thuyền rồng Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài.

  • NGUYỄN CƯƠNG Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.

  • NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾNXưa nay, trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, Huế được nói đến rất nhiều, nhất là với những người con của Huế trong đó có những hoàng tử của triều Nguyễn đặc biệt là các hoàng tử của triều vua Minh Mạng.

  • L.T.S: Ông Nguyễn Hải Âu quê ở Hà Nam Ninh. Năm 1941 ông đi lính bị đưa sang Pháp rồi sang Alger. Ở Pháp và Alger ông tham gia lãnh đạo phong trào phản chiến nên bị đưa sang Calcutta, không cho hồi hương.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂNTrong số những phụ nữ ở Huế mà tôi được gặp lúc thiếu thời, có một khuôn mặt tôi nhớ mãi, không những vì có nhiều quan hệ gần gũi với tôi, mà một lúc nào đó đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Đó là bà Đạm Phương.

  • LÊ VĂN HIẾN(Trích hồi ký)

  • LND: Bửu Đình là một nhà văn có tinh thần yêu nước được các tầng lớp thanh niên thời kỳ trước ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam yêu mến. Vừa rồi, nhân đọc cuốn “Những bí mật trên Côn Đảo” của nhà văn Demario Giang Colotdo viết từ những năm 1935-1936 (xuất bản tại Paris năm 1956) - một cuốn sách ca ngợi khí tiết của những người tù cộng sản trên Côn Đảo, thấy có một chương (1) viết về Bửu Đình, tôi xin dịch để giới thiệu với bạn đọc Sông Hương. Đây là tư liệu đầu tiên giới thiệu Bửu Đình, rất mong bạn đọc và gia đình của nhà văn Bửu Đình cung cấp thêm tư liệu để chúng tôi có thể giới thiệu một cách đầy đủ về nhà văn của núi Ngự sông Hương này.

  • Vắng mặt Sông Hương suốt mấy trăng,Đuổi xong ma bệnh rước tin mừng…

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNDo Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ ở Việt Nam, cho nên người phụ nữ Huế ngoài dân trăm họ thông thường như các địa phương khác còn có phụ nữ thuộc tầng lớp vương giả sống trong chốn Nội cung nhà Nguyễn như các bà mẹ vua, vợ vua, con gái vua, cháu vua và cung nhân.

  • TRẦN MINH TÍCHBên bờ phá Tam Giang mênh mông sóng nước, cách thành phố Huế khoảng chừng hai mươi cây số về phía đông nam có vùng đất bạt ngàn cát trắng, nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược là cái nôi của cách mạng, hàng bao nhiêu hạt giống đỏ được ươm mầm để nhân rộng ra các vùng đất khác, tên gọi của xã vùng cát anh hùng đó là Phú Thạnh bây giờ là Phú Đa.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNThừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNQuả thực đã nổi lên sự phong phú đặc biệt khi đứng ở góc nhìn tập trung, tế nhị, để điểm lại một số ảnh hưởng lớn, khó phai nhòa của họ, những khuôn mặt Nữ lừng danh của vùng đất Thuận Hóa.

  • TRẦN XUÂN THẢOKỷ niệm năm sinh thứ 160 của Tôn Thất Thuyết (1839 - 1999)

  • BỬU ÝKhi nghe dóng lên câu hỏi: “Người Huế, anh là ai?” có lẽ cùng chẳng ai buồn giật mình hay ngạc nhiên làm gì. Bởi lẽ cái chân dung sẽ được phác hoạ ra chắc chẳng có gì độc đáo. Ai nấy đều đã biết rồi, đã gặp rồi, đã gặp khắp nơi là đằng khác. Dù sao, đây cũng thuộc loại hình ảnh cũ kỹ trong cuốn album gia đình mà anh chị em thường táy máy giở đi giở lại vậy.

  • N. I. NIKULIN*Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Và lòng đầy xúc động tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.

  • LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.