Người giữ lửa nghề làm đèn kéo quân

16:05 15/09/2018

Dù trẻ con ngày nay ít còn chơi đèn kéo quân nữa, nhưng mỗi mùa Trung thu đến, gần ngày rằm tháng 8, nghệ nhân Vũ Văn Sinh lại cặm cụi làm những chiếc đèn truyền thống để giữ nghề, hoài niệm tuổi thơ và tưởng nhớ tổ tông.

Nghệ nhân Vũ Văn Sinh

Thú vui “cổ tích”

Chúng tôi về thôn Đàn Viên, xã Cao Viên (huyện Thanh Oai, Hà Nội) để gặp nghệ nhân Vũ Văn Sinh. Tết Trung thu đang cận kề, căn nhà nhỏ rộng rãi của gia đình nghệ nhân Vũ Văn Sinh – Nguyễn Thị Hạnh, nằm cuối xóm Hạnh Phúc. Thi thoảng có người đến đặt đèn kéo quân hoặc các đoàn thể, cô giáo đưa các em nhỏ đến học cách làm đèn kéo quân.

Cái tên Vũ Văn Sinh nổi tiếng từ năm 2006 với kỷ lục là tác giả của chiếc đèn kéo quân lớn nhất Việt Nam. Ở khắp xã Cao Viên này có lẽ chỉ còn duy nhất gia đình ông “thủy chung” với nghề làm đèn kéo quân. 

“Khó nhất trong làm đèn kéo quân là trục và tán quay cho đèn. Trục làm từ tre vót mảnh, vừa đủ nhẹ để có thể quay, vừa đủ cứng để treo hình không bị đổ. Với khung bằng tre sẽ được cuốn quanh bằng giấy poluya. Người làm phải dùng keo cố định giấy xung quanh khung, chỉ đề chừa ra một ô để chỗ cho nến, tản đèn. Tản đèn giúp cho hình tròn bằng nan tre có dính các hình thù bắt mắt có thể quay. Khi nến được thắp lên, lửa sẽ làm nóng không khí bên trong và gây chênh lệch nhiệt độ với bên ngoài để tạo ra luồng gió len lỏi qua khe của tản đèn và làm các hình ảnh quay vòng. Bóng của chúng được chiếu lên mặt giấy bên ngoài sống động như xem phim”- nghệ nhân Vũ Văn Sinh cho biết.

Điều dễ thấy là những chiếc đèn kéo quân của gia đình nghệ nhân Sinh – Hạnh đều làm từ chất liệu tự nhiên khác hẳn với những chiếc đèn kéo quân có nguồn gốc từ Trung Quốc bày bán ở phố Hàng Mã, Hàng Gai hiện nay. Nếu chơi đèn kéo quân xong mà cất vào túi bóng cẩn thận thì đèn vẫn bền và có thể chơi được mấy năm liền.  Đó là lý do những vị khách quen vào mỗi dịp Trung thu lại tìm đến nhà nghệ nhân Sinh để đặt đèn kéo quân cho con trẻ. 

Nỗi lo còn mất

Hiện nay, trẻ con có nhiều đồ chơi hiện đại, bắt mắt nên ở Hàng Mã không đặt hàng nghệ nhân Vũ Văn Sinh nữa. Khách đến nhà giờ đây chỉ cả năm cũng chỉ lác đác vài người. Gia đình ông vẫn cố gắng duy trì nghề làm đèn, vì bây giờ đối tượng đặt đèn kéo quân chủ yếu là các nhà văn hóa, các quán cà phê, các đám cưới... chẳng thấm thoát vào đâu. Hiện, ngoài làm đèn kéo quân theo các đơn đặt hàng, ông Sinh vẫn được mời đến các lớp mẫu giáo, các làng trẻ em để hướng dẫn cách làm đèn kéo quân cho các em nhỏ. Thỉnh thoảng một số trung tâm giáo dục thường xuyên vẫn đưa những học viên nhí về tận gia đình để học làm đèn.

Ông Sinh tâm sự: “Tôi đang ế hàng đây, làm từ đầu mùa được mấy chục cái, vứt chỏng chơ trong kho. Hiện nay, gia đình chủ yếu làm pháo bông phục vụ lễ hội, chứ còn làm đền kéo quân chỉ là nhớ nghề. Mấy năm nay, khi có đơn đặt hàng từ các cửa hàng đồ chơi trẻ em hay các quán cà phê thì gia đình vẫn giở ra làm. Còn phần nhiều phải đến tận gần Trung thu hàng năm thì mới bắt đầu làm đèn kéo quân cho vui và phục vụ trẻ em trong làng vui Trung Thu”.

Theo ông Sinh, để làm một chiếc đèn kéo quân dù là nhỏ cũng phải mất cả ngày mới xong. Đổi lại khi bán cũng chỉ được 50 ngàn đồng/chiếc. Nếu trừ các vật liệu và công làm đèn, tính ra người làm chỉ được lãi từ 10 - 20 ngàn đồng/ngày. Khách đến đặt và mua hàng ngày một thưa thớt. Chính vì thế, người dân làng Đàn Viên không ai sống được bằng nghề. 

“Bây giờ, tôi trăn trở lắm, có quá nhiều thứ đồ chơi “ngoại lai” độc hại, gây ung thư, rất ảnh hưởng đến sức khỏe các cháu. Tại sao chúng ta có điều kiện, có hiểu biết mà không tìm kiếm cho trẻ lấy một thu vui lành mạnh, an toàn mà cứ cố chạy theo những thứ thị hiếu nhấp nhóa kia, thật đáng buồn”- nghệ nhân Vũ Văn Sinh băn khoăn.  

Theo Minh Phúc - ĐĐK

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.

  • Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H

  • Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.

  • Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".

  • (Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.

  • Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.

  • Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!