NGUYÊN QUÂN
Bút ký dự thi
Bây giờ như đã là một thói quen, cứ mỗi lần có việc phải đi qua một trong năm cái cống bằng gạch cổ bắc qua dòng sông Ngự Hà, tôi cũng dừng lại chụp vài tấm ảnh.
Sông Ngự Hà xanh trong hôm nay - Ảnh: Tác giả
Áng chừng hình ảnh tôi lấy từ con sông đào nhỏ bé này cũng đã lên vài ba trăm tấm. Cái thú la cà chụp ảnh để “cúng Facebook” đã trở lại thành nghiện ngập, một động thái mua vui không tốn kém gì ngoài thời gian, mà thời gian của một người đã chạm ngạch cổ lai hy thì giàu có vô tận. Tôi đã treo lên tường Face nhà mình khá nhiều ảnh mang chủ đề về một con sông, hai hàng cổ thụ, những ngôi nhà tầng, biệt thự mới toanh đa sắc vươn mọc ven bờ và những con đò thả chài giăng lưới... Những hình ảnh có vẻ đơn điệu chỉ như một thứ nhật ký ghi thoáng mọi hoạt cảnh sinh động vần chuyển sớm, trưa, chiều, tối, bốn mùa mưa nắng trong đục trên bờ dưới nước của con sông mà tôi vẫn quen đề từ giới thiệu là “Sông trước hiên nhà”.
Với mớ hình ảnh này cũng được khá nhiều người tương tác trên không gian mạng xã hội, có nhiều người khen dòng sông êm ả hiền lành, có nhiều góc ăn ảnh và cũng chẳng thiếu người ngỏ ý chê rằng nhìn riết vài góc ảnh bó rọ, trùng lặp đâm chán mắt. Khách quan mà luận thì ý niệm gà què ăn quẩn cối xay của họ dành cho những bức ảnh về một chủ đề “Sông trước hiên nhà” của tôi cũng không có gì quá đáng. Bởi Ngự Hà vốn dĩ là một dòng chảy cực ngắn, nếu chạy xe máy tà tà, thì từ điểm “khởi nguồn” là cống Thủy Quan đến nơi kết thúc là cống Lương Y, chỉ mất vỏn vẹn không đầy mươi, lăm phút đồng hồ. Chính vì những lời bình luận đa chiều của bạn bè tương tác trên mạng xã hội, trong đó rất nhiều người chưa từng đến Huế hoặc đã đôi lần vãng lai xứ sở Thần kinh, một miền đất đã được công nhận di sản vật thể quý hiếm của nhân loại, mệnh danh là Bài Thơ Đô Thị. Nhưng đa số những người từng đến Huế cũng như chưa đến Huế, có chung một tâm sự là chỉ biết, chỉ nghe và đi thăm thú đền đài lăng tẩm, hay lênh đênh sông Hương nghe ca Huế chứ không mấy ai từng được nghe tới cái địa danh sông Ngự Hà. Vì những người bạn tương tác này, nên tôi cũng xin điểm thoáng qua một chút lịch sử của sông và tâm sự của tôi về Ngự Hà, để những ai mới nhìn nó qua mấy cái ảnh tôi chụp, có thể hình dung và cảm thông tại sao tôi đam mê chụp địa danh này.
Ngự Hà là một nhánh sông ngắn, hẹp, chảy vắt ngang kinh thành Huế từ Tây sang Đông. Hai bờ được nối với nhau bằng 5 chiếc cầu bề thế, kiên cố - đó là: Cống Ngự Hà (còn có tên là Khố kiều, dân gian gọi là cống Cầu Kho). Cầu này khởi thủy được xây dựng bằng gỗ và tre đặt tên Thanh Câu (thời Gia Long), đến năm Minh Mạng thứ 1 cho xây lại bằng đá, trên có làm mái che. Cầu Khánh Ninh (sau này dân gian gọi tên là cống Hắc Báo), được xây vào năm Minh Mạng thứ 6. Cầu Vĩnh Lợi, xây dựng kiên cố vào năm Minh Mạng thứ 7, thời Thiệu Trị lại cho làm thêm mái che. Cống Thủy Quan, là thủy khẩu nằm phía tây (đầu nguồn sông) nên còn có tên Tây Thành Thủy Quan. Cầu Lương Y, là thủy khẩu nằm phía đông (cuối dòng sông) còn có tên là Đông Thành Thủy Quan. Theo sử liệu, sông Ngự Hà hình thành sau hai lần khởi công, thời vua Gia Long khi xây dựng kinh thành Huế (1804), một năm sau (1805) nhà vua cho đào từ nhánh Bao Vinh vào đến Võ Khố (khu vực Cầu Kho ngày nay), được đặt tên là Thanh Câu. Đến 1825 (năm Minh Mạng thứ 6) mới được đào tiếp cho đến giáp sông Kẻ Vạn và đổi tên thành Ngự Hà. Thời đó con sông được sử dụng làm đường giao thông thủy, vận tải hàng hóa, khí tài quân sự từ ngoại thành vào trong Nội thành, và nhánh sông đào này cũng là một “mạch chính” thủy lợi hoàn chỉnh nối kết hơn 40 cái hồ trong Thành bằng năm hệ thống cống ngầm rất lớn; cống được xây bằng gạch, mục đích tiêu thoát, thay nước úng đọng toàn bộ ao hồ trong kinh thành qua cống Lương Y chảy theo sông đào Hàng Bè để ra biển vào mùa mưa lũ. Nhờ vậy cứ sau mỗi mùa mưa, là nước ao hồ lại được thay mới, sạch hóa.
![]() |
Ảnh: Tác giả |
Lược sử về con sông là vậy, quá trình và công năng thủy lộ hình thành hàng trăm năm này cũng chẳng có gì đặc sắc hơn hàng trăm công trình đền đài lăng tẩm sơn son thếp vàng lộng lẫy, tọa vị trên vùng đất Cố đô Huế. Sông Ngự Hà tuy quan trọng là vậy, cũng chẳng được vua Thiệu Trị điểm danh trong “Thần kinh nhị thập cảnh” (Hai mươi cảnh đẹp đất Thần kinh) như những cảnh gần đó là hồ Tịnh Tâm hay chùa Giác Hoàng.
Với tôi, Ngự Hà hiện nay không chỉ đơn giản là một con sông có cảnh quan rất đẹp nhờ vào dòng nước luôn trong xanh và có thiết kế gập khúc đối xứng phối cảnh với độ cong những chiếc cống rêu phong rất trữ tình. Hai bên bờ sông, dưới những tàng long não cổ thụ là thảm cỏ ba lá xanh mướt, bao bọc từng lối đi nhỏ lát gạch nâu. Nhiều khúc đoạn ngay sau khi đã được giải tỏa nhà ở, công ty cây xanh đã nhanh chóng ươm, trồng những loài cây lưu niên mới, mỗi khúc đoạn, mỗi loài hoa, mỗi màu hoa. Cư dân trong những căn nhà khang trang đối diện phía bên kia đường cũng góp công làm đẹp ven bờ bằng nhiều tiểu cảnh, mà chỉ có câu thơ bất hủ của Bà Huyện Thanh Quan trong thi tuyệt phẩm “Qua Đèo Ngang” mới đặc tả được tinh thần của hai bờ Ngự Hà hôm nay, đúng là “cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Những thảm hoa cỏ tự phát theo sở thích từng người, tạo nên nhiều góc nhìn bốn mùa đa sắc thích mắt.
Ngự Hà còn mang thêm một ý nghĩa vô cùng đặc biệt với tất cả cư dân Nội thành Huế, đó là sự hồi sinh kỳ diệu của một con sông tưởng chừng như đã vĩnh viễn không còn cơ hội sống sót. Với riêng tôi, sự phục sinh của Ngự Hà còn trả lại cho tôi một thế giới huyền tích, gắn liền với tâm thức tuổi thơ qua nhiều câu chuyện mà ba tôi, mạ tôi và những người hàng xóm lớn tuổi lúc trà dư tửu hậu thường kể về những gì liên quan đến con sông vắt ngang Nội thành Kinh đô Huế. Và dù đa phần những câu chuyện được “người lớn kể” luôn mang nặng màu sắc tâm linh huyền hư, cũng đã sinh sôi nhiều mầm mơ trong trí tưởng non nớt của một đứa bé. Có thể từ mấy câu chuyện nghe kể xa xưa ấy đã khiến tôi bây giờ nhìn Ngự Hà với một ánh mắt mơ mộng thoát ra ngoài cảnh vật thực tế.
Vâng, chỉ là... có thể lúc lang thang cùng sông trong những đêm tràn ngập ánh trăng viên mãn hay trong những mai sớm mùa thu mù sương, tôi sẽ gặp lại được chiếc thuyền Ngự lộng lẫy hoa đèn, réo rắt tiếng đàn tiếng sáo, tiếng ca ngâm của phi tần mỹ nữ áo phượng khăn vành bên những võ, văn quan uy nghiêm chập chờn trên sóng nước thường xuất hiện trong những đêm trăng rằm. Hay sẽ bắt gặp linh hồn của một cô gái tuyệt vọng vì tình yêu môn đăng hộ đối cổ lỗ mà trầm mình trên dòng sông này, để tạo nên một câu chuyện tình bi đát truyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ khác của cư dân sống ven bờ và con ma rà tuyệt tình ấy thường hóa thân thành một nàng thiếu nữ ngồi khóc tỉ tê bên bờ sông, dụ dỗ những ai đồng cảnh ngộ bước tới gần là nắm tay lôi tuột xuống đáy sông... Nhiều lắm, những huyền thuyết trên một con sông mà khi tôi vừa biết khôn, biết nhìn nhận bằng con mắt trần trụi thì nó chỉ là một lạch nước tù đọng bùn lầy, đen ngòm chứa đầy rác rến. Đeo bám hai bên bờ là những ngôi nhà, mái lều tạm bợ nhếch nhác. Nó trước đây là vậy, thì lấy đâu ra hình ảnh chiếc thuyền rồng của vua chợt hiện trên khói sóng vào những đêm trăng tròn. Lấy đâu ra những bến nước sâu hút, nơi con ma rà dụ người đến gần để dìm chết thế chỗ cho mình đi đầu thai.
Để rồi nỗi sợ hãi con ma rà nhớt nhát thả dài mái tóc óng ả, niềm khát khao nhìn thấy chiếc thuyền Ngự giăng đèn kết hoa lộng lẫy trong từng giấc mơ của tuổi thơ cũng dần dần phai nhạt. Dòng sông đầy câu chuyện kể ấy đã chết, còn lại chăng chỉ là một lạch nước đen đúa rều rác, hệ quả của một thời gian dài chiến loạn và việc quản lý lỏng lẻo, nên hai bờ bị lấn chiếm, san lấp. Rất nhiều người từ thôn quê di tản lên thành phố để tránh mưa bom bão đạn. Do nhu cầu cấp thiết nơi ăn chốn ở cho những nạn dân này, chính quyền thời đó, phải tạm bố trí, cho phép họ được che chắn lều trại dọc hai bên bờ sông. Giai đoạn đầu các cấp chính quyền sở tại vẫn nghiêm cấm việc xây dựng các công trình bền vững kiên cố. Nhưng về sau việc quản lý càng lỏng lẻo, nên những “lều trại tạm thời” ấy dần biến thành những ngôi nhà bề thế bê tông cốt thép và điều tất nhiên là mép sông vô hình trung trở thành nơi đổ rác thuận lợi của đa số cư dân. Chính sự vô tâm đổ rác thải dồn tụ lâu ngày đã khiến Ngự Hà bị thu hẹp dòng và khô kiệt, từ một dòng chảy rộng hơn bốn mươi mét bị biến dạng thành một lạch nước bé nhỏ rộng không quá vài mét, sình lầy đen ngòm, đứt quãng bởi đủ loại rều rác, cỏ dại.
Sau năm 1975, chính quyền cũng nỗ lực nạo vét mong phục dựng diện mạo và công năng sông Ngự Hà. Từ những năm 1992, 1996, 2000 đã thực hiện nạo vét dòng chảy với kinh phí rất lớn, tiếng máy hút bùn, tiếng máy xúc ì ầm ngày này sang ngày khác, năm này qua năm nọ, nhưng cứ hễ nạo vét xong, chỉ vài ba tháng sau thì đâu lại trở về đó, sông cũng đầy rác, tắc dòng. Nguyên nhân chính vẫn là do không giải tỏa được số nhà cửa đeo bám dọc hai bên bờ.
Và rồi cái gì đến nó phải đến, đó là chiến lược đồng loạt giải tỏa toàn bộ nhà cửa, cư dân trên hai bờ. Có thể nói như một giấc mơ tưởng rằng không hề có thực. Mỗi buổi sáng bây giờ tôi theo thói quen chạy bộ dọc theo sông để được hít thở không khí trong lành, để nhìn ngắm thỏa thích thiên hạ. Không chỉ riêng lứa ông già bà lão như tôi, mà đông đen đông đỏ nam thanh nữ tú kéo đoàn tốp năm, tốp ba vừa đi thể dục vừa cười đùa tám chuyện trên trời dưới đất. Dưới sông thì tấp nập thuyền chài giăng câu thả lưới, đa số những ngư dân này ở tận những làng dọc phá Tam Giang, họ mang theo cả gia đình đủ thuyền lớn, đò nhỏ lên đây cắm neo dưới những vòm cống trú mưa trú nắng, đánh bắt năm bữa nửa tháng mới rút về, theo lời họ nói là con sông này, tuy ngắn, hẹp nhưng nước sâu, trong lành và mát nên cá sinh sôi nhiều vô kể, tha hồ đánh bắt.
Phải thừa nhận đây là kết quả quá sức tưởng tượng sau rất nhiều nỗ lực của chính quyền. Từ việc tổ chức đền bù, giải tỏa, di dân. Rồi an sinh định cư được cho hàng trăm hộ gia đình từng bám víu dọc theo hai bờ của sông. Rồi cải tạo, phục dựng cảnh quan, khai thông hai con đường ven hai bờ chạy dài theo sông, nơi đã từng bị nhà cửa chen chúc xâm lấn bịt kín. Thật sự mà nói, đối với những người không phải là dân Thành nội Huế, hay sống kế cận hàng chục năm dài, cũng chẳng mấy ai quan hoài đến chuyện sống chết của một dòng sông nhỏ, thậm chí đến cái tên rất chi là vương đế, cũng chẳng mấy người từng nghe và biết về nó. Không như tôi, xưa từng có một thế giới cổ tích kỳ ảo đầy những mơ mòng mộng mị bởi con thuyền Ngự... Và bây giờ lại trở về với chủ thể sáng tạo cuộc chơi hình ảnh nhàn rỗi của tôi. Với lại nó vốn dĩ xưa nay là con sông trước hiên nhà nên rất gắn bó với môi trường sống, trước đây nó ngắc ngoải sình lầy ứ đọng bốc mùi thì những ngôi nhà gần nó cũng ngợp ngụa ngất ngư, chừ nó trong xanh mỹ lệ thì tôi cũng hưởng dụng đủ thứ “thơm lây”.
Cứ chạy, cứ đi, cứ đạp xe chầm chậm quay quanh một dòng chảy trong xanh thoáng đãng, lác đác vài chiếc thuyền chài chập chờn gõ dầm đuổi cá trong màn sương sớm, tôi nghĩ ai cũng có thể cảm nhận được hết cái sinh thú, thi vị của những ông vua triều Nguyễn khi nhàn du thưởng ngoạn cảnh sắc xanh thơm dịu mát trong những ngày hè nóng nực của Huế... Ngự Hà. Hy vọng trong tương lai, chính quyền sẽ khai thông được toàn bộ dòng chảy Ngự Hà từ sông Kẻ Vạn đến sông Hàng Bè để ngành du lịch của Thừa Thiên Huế có thể thực hiện được tour du lịch bằng thuyền từ Hương giang xuôi Hàng Bè vào Ngự Hà ra Kẻ Vạn để du khách đến Huế có thêm một địa chỉ bềnh bồng thú vị không thua gì được ngồi thuyền vua, tha hồ gõ nhịp Lưu Thủy Hành Vân.
N.Q
(TCSH47SDB/12-2022)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.