NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN
NGUYỄN BỘI NHIÊN
Bức ảnh Bồ tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân tại Sài Gòn năm 1963
>> Khai mạc triển lãm “Lửa từ bi”
>> Tập ảnh tư liệu lịch sử ngày 11-6-1963 - Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu của tác giả Malcolm Browne (AP) : 1931 – 2012
>> Đại lễ tưởng niệm 50 năm Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu - Phật Giáo muốn gì? của tác giả Cao Huy Thuần
Gần bốn mươi năm trước, thấy Ba kính cẩn treo tấm ảnh đen trắng chụp hình một trái tim được đặt trên chiếc cốc thủy tinh trong suốt và chiếc cơi sáng lấp lánh ở khoảng tường đẹp nhất trước bàn thờ Phật của gia đình, anh em chúng tôi không hiểu tấm ảnh nói lên điều gì và tại sao lúc ấy gương mặt của Ba thành kính đến vậy. Thêm vài tuổi, anh trai của chúng tôi nói với đàn em còn ngơ ngác của mình rằng trái tim trong tấm ảnh ngày ngày vẫn hiện bóng trong những ánh mắt trẻ thơ chúng ta đây là trái tim của một con người - một nhà sư đã dùng thân mình thắp lên ngọn lửa huyền vi trong phong trào Phật giáo tranh đấu vào năm 1963. Đức Phật dạy con người sống hòa bình, từ bi, hỉ xả thì đã nguyện theo Phật sao lại tranh đấu và tranh đấu của Phật giáo sao lại phải tự thiêu... Thuở ấy, anh em chúng tôi chưa hiểu.
![]() |
Tấm ảnh đen trắng chụp hình trái tim Bồ tát Thích Quảng Đức của Ba tôi (Ảnh: Bội Nhiên) |
Hình ảnh Tăng, Ni, Phật tử cùng huynh trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử biểu tình ôn hòa chống sự kỳ thị tôn giáo, đàn áp và khủng bố Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, hình ảnh nhà sư Thích Quảng Đức hiền từ ngồi kiết già niệm Phật trên đường; hình ảnh tự tại của Hòa thượng Thích Quảng Đức giữa ngọn lửa dẫn chúng tôi đến niềm ngưỡng vọng nhà sư vị pháp thiêu thân. Qua ngọn lửa và trái tim bất diệt của Ngài, chúng tôi đọc thấy tâm nguyện của bậc chân tu: “Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Hòa thượng trụ trì Chùa Quán Âm Phú Nhuận (Gia Định). Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật Pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo...”. Qua lời kể của nhiều người, chúng tôi hiểu chính tâm nguyện đó đã đưa vị Hòa thượng nhân hậu ấy tới ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, nay là ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Cách mạng Tháng Tám (Quận 3, TP. Hồ Chí Minh) vào ngày 11/6/1963 mà khoan thai bước xuống xe, chắp tay xá bốn phương rồi tĩnh tại ngồi kiết già trên đường, mặt quay về hướng Tây, miệng lâm râm niệm Phật trước giây phút tự tay mình châm ngọn lửa. “Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau: Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường cửu bất diệt. Mong nhờ hồng ân chư Phật gia hộ cho chư Đại đức Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ gian ác. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc. Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa. Tôi tha thiết kêu gọi chư Đại đức Tăng Ni và Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn Phật giáo”.
Báo chí thời đó phản ánh, khi ngọn lửa vị pháp thiêu thân của Hòa thượng Thích Quảng Đức bùng lên, cả Sài Gòn đã khóc và cảnh sát chống biểu tình đã buông dùi cui, súng ống... Những tấm ảnh ghi lại những khoảnh khắc xúc động của cuộc vị pháp thiêu thân bởi nhà báo Malcome Browne của Hãng thông tấn AP ngay hôm sau đã làm rung động trái tim con người trên khắp thế giới, như Tổng thống Mỹ John F.Kennedy đã nói: “Không một bức hình thời sự nào trong lịch sử lại gây nhiều xúc cảm trên khắp thế giới như vậy”. Và con người trên khắp thế giới sẽ còn nhiều xúc cảm bởi sau cái chết bình thản cung hiến cho hòa bình của dân tộc và Phật pháp, dẫu đã hai lần được đưa vào lò hỏa thiêu, nhưng năm ngàn độ lửa vẫn không thể đốt cháy trái tim xá lợi của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Như người trong cuộc đã kể, đêm trước tự thiêu, chính Hòa thượng Thích Quảng Đức đã dặn dò rằng nếu tâm nguyện thiêu thân vì đạo pháp và hòa bình của mình được Phật tổ chứng giám, Người sẽ về cõi Phật và để lại một trái tim xá lợi thì dường như tâm nguyện của Người đã linh ứng. Để rồi từ đó về sau, dẫu chỉ nhìn thấy trái tim bất tử của vị Hòa thượng vị pháp thiêu thân qua hình ảnh sao chụp nhưng những Phật tử bình dị như Ba của chúng tôi vẫn chiêm bái và phụng thờ trái tim ấy với tấm lòng thành kính và niềm tin “Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ tát/ Dội hào quang xuống chốn A tì” (Lửa từ bi - Vũ Hoàng Chương).
Cái chết vô úy của Hòa thượng Thích Quảng Đức vào ngày 11/6/1963 đã làm cả thế giới bàng hoàng, xúc động. Là một hành động tiêu biểu của tinh thần bất bạo động mà Phật giáo Việt Nam quyết định không lìa bỏ trong cuộc tranh đấu vì hòa bình và tự do tín ngưỡng từ ngày 7/5/1963 đến ngày 1/11/1963. Ngọn lửa vị pháp thiêu thân của Hòa thượng Thích Quảng Đức đồng thời là một kháng nghị cao đẹp và hào hùng, lộng lẫy chống lại sức mạnh bạo trị đen tối đương thời. Tôi đã đọc đây đó trên nhiều tài liệu điều cảm phục ấy. Qua những tài liệu về sự hy sinh có ý nghĩa giác ngộ của Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế hệ hậu sinh như chúng tôi hiểu rằng: Khi ngọn lửa chính nghĩa bừng sáng trên thân thể của vị sư “Bước ra ngồi nhập định về hướng Tây/ Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ/ Phật Pháp chẳng rời tay/... Tụng cho nhân loại hòa bình” (Lửa từ bi), nhân dân Sài Gòn đã được tiếp sức và hòa vào nhau như những giọt nước trong đại dương. Để rồi hôm nay, mỗi khi ngang qua bức tượng Bồ tát Thích Quảng Đức ở ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Cách mạng Tháng Tám là mỗi lần người dân tưởng nhớ Hòa thượng - Bồ tát Thích Quảng Đức và tri ân ngọn lửa chính nghĩa, ngọn lửa từ bi cũng như công đức hy sinh của Ngài cho Giáo hội Phật giáo và đất nước, dân tộc Việt Nam.
“Chỗ người ngồi: Một thiên thu tuyệt tác/ Trong vô hình sáng chói nét từ bi” (Lửa từ bi), ngọn lửa vị pháp thiêu thân và quả tim bất diệt của bậc chân tu Thích Quảng Đức là biểu tượng của lòng từ bi, trắc ẩn và là điều màu nhiệm đã dẫn đến việc giới Phật tử suy tôn Hòa thượng Thích Quảng Đức thành Bồ tát. Bây giờ, dẫu hiểu biết về ngọn lửa Bồ tát Thích Quảng Đức vẫn chưa nhiều nhưng mỗi khi nhìn lên tấm hình trái tim xá lợi của Bồ tát mà Ba để lại, anh em chúng tôi vẫn thầm biết ơn ngọn lửa hoằng hóa của Bồ tát Thích Quảng Đức đã mang lại niềm tin giác ngộ: Đạo pháp trường tồn với nền hòa bình và tình nhân loại.
N.B.N
(SDB9/6-13)
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).
TRẦN THỊ KIÊN TRINH
Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.
BÙI KIM CHI
“Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…
Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.
Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.
LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.
NGUYỄN LỆ BA
Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.
BÙI KIM CHI
Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.
Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.
TRIỆU BÔN
Hồi ký
Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.
NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...
BÙI KIM CHI
Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.
NGUYỄN VĂN UÔNG
Tùy bút
Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.
HỒ XUÂN MÃN
(Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)
Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.
TRẦN THỊ NHƯ MÂN
Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
Trích "Hồi ký song đôi"
Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.
LÊ QUANG KẾT
Bông hồng dâng mẹ
Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.
TRẦN HOÀN
Hồi ký
Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.