PHAN TRUNG HIẾU
Cha con tôi trú trong một căn nhà tuyềnh toàng cạnh đường cái quan. Mái nhà tranh cũ kỹ, đen xỉn một gam màu lạnh giữa nhà nhà mái tôn, mái ngói, gạch ốp sáng choang. Cũng chả lấy thế làm buồn.
Minh họa: NGUYỄN THIỆN ĐỨC
Nhà mỗi hai người đàn ông, chật một tí lại đâm ra ấm cúng. Độ này cha tôi già đi nhiều. Ông để râu, trải trắng xuống quá khuy áo ngực thứ nhất. Ngày trước ông nổi đình nổi đám trước cánh đàn bà thôn quê với mái tóc chải bồng ngược và tài đàn hát. Mẹ tôi cũng được gái, lại con nhà giàu thế mà đồng ý nhận trầu của cha tôi. Hồi tôi còn nhỏ, nghe mẹ kể: “Tao bị tiếng đàn cha mày bắt mất hồn”. Cha nghe được, nói: “Sao dại thế?” Mẹ lườm: “Tại ông bỏ bùa bỏ phép chứ tôi hám gì loại nghèo xác như ông”. Bà hờn mát thế chứ thương ông thật bụng. Người nhỏ thó lại ham công tiếc việc nên về già chóng đổ bệnh, rồi mất. Đám tang bà, người làng kéo đến dẫm nát cả vuông vườn. Khói hương nghẹt thở, cứ như bếp đun rạ ướt. Từ khi mẹ tôi mất, cha lặng lẽ như một cái bóng. Cây đàn măng-đô-lin im lìm treo trên vách, nguội tênh.
Thừa hưởng dòng máu của cha, tôi cũng yêu âm nhạc nhưng không thích cây măng-đô-lin cũ kỹ. Số tiền dành dụm được mấy mùa tết, tôi nhờ thằng bạn học trên thị xã lùng mua cho cây ghi ta gỗ. Những ngày ở lính, tài lẻ của tôi là niềm tự hào của đơn vị. Đợt hành tiến vào Nam, đơn vị tôi dừng chân ở một xóm dân ven đường cái quan. Nhà bọn tôi trọ có cô con gái tên Hương, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt sáng đẹp như mắt chim câu. Những lúc rỗi, Hương thường bắt tôi đàn hát bài “Nổi lửa lên em”, cho dẫu em chỉ “nuôi quân” cho bọn tôi vẻn vẹn có mấy ngày. Bữa chúng tôi lên đường, Hương khóc miết. Kể tay đại đội trưởng cũng tệ, mờ sáng mới báo lệnh xuất phát. Thế là chẳng kịp có đêm chia tay. Hương tiễn tôi, bàn tay em run rẩy bíu chặt lấy túi áo ngực. Tôi cố gỡ để kịp đuổi theo hàng quân lúc đó đã khuất sau ngõ xóm. Tôi là kẻ không may mắn trong chiến tranh dù rằng ngày về huân, huy chương đính đầy ngực áo, chỗ có dấu tay người con gái bám chặt trước lúc xa. Trong một trận đánh quyết định trước ngày giải phóng, chúng tôi vọt lên chiếm lĩnh trận địa đã rã rời tiếng súng của đám tàn quân. Lúc ấy trong đầu tôi đã thấp thoáng bóng dáng của bờ đê, bãi mía quê nhà. Tôi sẽ trở về trong đoàn quân chiến thắng và tin rằng trong những người ôm hoa đứng vẫy bên đường sẽ có Hương... Một quả mìn phát nổ ngay dưới chân tôi đã cắt đứt niềm mơ tưởng. Như cây chuối bị phát gãy ngang thân, tôi khuỵu xuống, người nhẹ bẫng.
Sau gần ba tháng nằm điều trị ở bệnh viện quân y, tôi bị chuyển trả lại tuyến sau. Hai ống chân tôi dập nát đến mức các bác sĩ phải cho cắt bỏ đến quá đầu gối, sát tận bẹn. Thế là hết. Vĩnh biệt những đôi giày da bóng lộn và những ống quần ly là thẳng tắp! Tôi đau đớn trở về quê. Những bó hoa tươi đầy lòng biết ơn phủ ngập lối về. Tôi hổ thẹn đón những cành hoa mà dáng người tặng luôn luôn cúi xuống. Và tôi đã gặp lại tất cả, chỉ trừ Hương. Lòng dạ tôi rối bời. Muốn được gặp lại em và không muốn cho em gặp lại? Tôi đâu còn là chàng trai phong độ như ngày ấy. Chiến tranh đã tước mất của tôi một nửa chiều cao cho dù hàng ngày tôi đã kê mình lên hai chiếc đòn thấp dùng để đi lại trong nhà. Giờ đây tôi khác gì một đứa bé, mọi sự lớn nhỏ trong cuộc sống đều nhờ vào bàn tay đỡ đần của một người cha. Có người bàn với cha tôi xin tiêu chuẩn người phục vụ hay cho tôi vào ở trong khu điều dưỡng dành cho thương binh nặng. Cha hỏi ý kiến tôi. Tôi níu lấy áo ông, cầu van “cha cho con được ở thế này, với cha”. Cha tôi không bàn chuyện ấy nữa, tự ông xoay xỏa lấy mọi việc. Số tiền chế độ của tôi ông cất riêng và thỉnh thoảng lại bấm đốt tay nhẩm tính. Có bữa, thấy ông vui vẻ: “Tháng này cộng cả tiền lãi ngân hàng nữa là gần 10 triệu”. Tôi băn khoăn: “Đời cha còn được mấy nữa mà dành dụm, chắt bóp?” Cha tôi thở dài thườn thượt: “Thì mày cũng phải có vợ con, có một ngôi nhà cho nó tử tế chứ. Ở mãi thế này được à?” Tôi nói gạt: “Số con đã vậy, ai thèm lấy. Làm người chẳng nên huống hồ làm chồng”. “Thế còn con Hương, mày nghĩ nó chết rồi chắc?” Tôi trố mắt ngạc nhiên. Thì ra, chẳng có chuyện gì giấu ông được. Sáng mai, cha tôi dậy sớm, kêu thằng cháu bên xóm sang dặn dò chuyện cơm nước cho tôi rồi lẳng lặng xách túi, đội mũ ra đi. Nhìn cái dáng lòng còng của ông khuất dần sau cánh cổng, tôi chỉ chực muốn khóc. Tôi thật vô tích sự, suốt đời chỉ quấy quả người.
Rồi tôi cũng được trên ưu tiên cấp cho một chiếc xe lăn. Có xe, thỉnh thoảng tôi đi ra ngoài dạo, tạt vào coi cái chợ xép, mấy quán cóc ven đường. Lũ trẻ con trong xóm như được thấy người sao Hỏa. Chúng tò mò vây quanh chiếc xe và hình nhân kỳ dị. Có lần vui, nhân lúc chúng xán lại gần, tôi mạnh dạn cầm tay một đứa. Con bé lên 6 tuổi hoảng sợ khóc ré lên. Tôi vội buông tay nó, lòng trống rỗng, cho xe quay về nhà.
Cha tôi ngày càng trầm mặc. Ông uống rượu ít hơn. Bữa nhâm nhi độ hai chén nhỏ. Nhìn ông uống rượu mà buồn. Nhấp một hớp, cặp mắt đục mờ tối sầm lại, sâu hun hút. Một bữa, tôi đánh bạo hỏi: “Hay cha thử kiếm việc gì để con làm, ăn không ngồi rồi thế này cũng chán”. Cha nhìn trân trân vào hai ống quần nhũn nhẽo của tôi, nhỏ tiếng: “Vất vả, sợ con không chịu nổi”. “Không, con làm được mà”. Tôi vén ống áo khoe cánh tay vồng lên những múi thịt cuồn cuộn. Mắt cha tôi ánh lên niềm vui. “Để cha nghĩ xem”. Không để tôi đợi lâu. Sáng hôm sau đã thấy cha tôi lừng lững đội một bó lá tro về thả giữa sân. Rồi ông sai thằng cháu vác dao ra vườn chặt tre, đẵn thành từng khúc. “Cha định đan tranh?” - Tôi buột miệng hỏi. Cha tôi gật đầu, bảo: “Con cứ chịu khó đan thật nhiều, cha sẽ mang chợ bán. Nguyên liệu rẻ mà lợp nhà lại bền”. Làm được dăm bảy chục chiếc, cha tôi lại gọi lão Hân xe ngựa - bạn vong niên cùng làng đến chở đi. Dần dà, tôi cũng bớt mặc cảm mình là đồ ăn bám. Nhìn tôi làm, cha vui. Bữa đứa cháu về chơi, thấy tôi xoay xở chật vật với đám dao cưa, nó sấn vào định đỡ một tay. Cha tôi trừng mắt, quát: “Ai khiến, để chú ấy tự làm”. Tội nghiệp, con bé ngơ ngác như cún nhỏ bị mắng. Ít lâu sau, cha tôi bảo: “Tranh bữa nay ế rồi, ta chuyển sang làm đồ gỗ”. Rồi ông ra chợ, sắm sanh đủ thứ dụng cụ làm mộc và mua cả xe gỗ chất một đống to sụ trước sân. Gì chứ nghề mộc cha tôi thạo lắm. Từ cách kéo cưa, xẻ ván đục mộng mẹo cho đến từng nhát bào làm trơn. Mỗi thứ, cha tôi làm một ít, cứ như đang làm phần gỗ cho một ngôi nhà cầu kì nào đấy. Có lần tôi hỏi, ông ừ hữ cho qua chuyện. Biết tính cha không ưa vặn vẹo, tôi không gặng hỏi thêm. Việc nhập đồ gỗ có vẻ nhùng nhằng hơn, có hôm ông theo xe đến mấy ngày mới trở về. Chẳng biết hàng tôi làm thế nào mà trông ông hể hả lắm. Sau gần một năm, công việc rảnh dần, rồi không thấy ông mua thêm gỗ nữa. Ông thu dọn đám đồ nghề lỉnh kỉnh cho vào một cái bao tải buộc túm miệng lại
Đêm đó sáng trăng. Cha rủ tôi uống rượu. Ông thần thừ một lát rồi bảo: “Cha có chuyện này muốn nói với con”. “Chuyện gì hả cha?” Tôi hồi hộp và linh cảm có chuyện gì đấy hệ trọng. “Ngày mai, ta chuyển nhà nhé!” Giọng ông run run. “Sao vậy cha?” Tôi la lên như phải bỏng. “Đây chật chội lại không hợp với con. Vả lại, ngôi nhà này xem ra cũng ọp ẹp lắm rồi. Mà mùa mưa bão lại sắp đến”. “Thế cha định dọn đi đâu?” “Ngày mai hãy hay”. Giọng cha tôi dấm dẳn, ý muốn chuyển sang chuyện khác. Ông lóng ngóng lấy ra từ túi áo ngực một bức ảnh, đưa cho tôi: “Con có thích người phụ nữ này không?” Dưới ánh trăng bàng bạc tôi vẫn nhận ra tấm ảnh chụp nửa người một cô gái tay đan len, cặp kính đen to bản che lấn khuôn mặt trái xoan trắng mịn. Ai mà trông quen quen thế nhỉ? Tôi cố lục tìm trong trí nhớ nhưng bất lực. Cha tôi giục: “Có được không?” “Thưa cha, mình như đũa mốc nào dám chòi mâm son?” Cha tôi làm thêm một hớp rượu nữa rồi thủng thẳng: “Lẽ nào, con lại không còn ước mơ gì về hạnh phúc?” Tôi cúi gằm mặt, mân mê chiếc sẹo trên đùi phải. Những lời nói lấp lửng của cha khuấy lên trong tôi một khát vọng mơ hồ. Mặt tôi tự dưng nóng ran. “Thôi, giờ thì hãy vào đi ngủ đi, mai lên đường sớm”. Cha tôi bảo vậy. Tôi ngoan ngoãn vào nhà, đu lên giường nằm nhưng không tài nào chợp mắt. Cha tôi cũng lật trở suốt đêm. Khuya, ông lén dậy ra ngoài sân. Một lúc sau, có tiếng đàn rỉ rả vọng vào. Cả hát nữa. Giọng hát người già khàn đặc, đùng đục. Một lúc nữa thì tiếng đàn im bặt. Nghe thấy tiếng dép lê loẹt quẹt đi ra phía ngõ và độ nửa tiếng sau, tiếng chân buồn bã ấy mới quay về. Còn tôi, cũng trải qua một đêm đầy mộng mị.
*
Sáng mai, cha dậy sớm. Như đã đâu vào đó, lão Hân đánh xe ngựa đến chở đồ đạc lên xe. Gia tài tôi chẳng có gì ngoài chiếc xe lăn, hòm đạn đựng mấy bộ quần áo bộ đội đã bạc màu, hộp đựng huân, huy chương, bọc giấy cuộn bằng khen, giấy khen, cây đàn ghi-ta gỗ. Thấy cha giục lão Hân lên đường, tôi ngạc nhiên: “Thế còn đồ đạc của cha?” “Chật rồi, chuyến sau rồi tính, cha còn phải trở lại chào bà con chòm xóm”. Tôi thảng thốt ngó lên bức vách: “Thế còn cây đàn măng- đô-lin?” “Cha ném nó xuống sông rồi. Để nó thêm nhớ mẹ mày. Vả lại, đã có cây ghi-ta của con. Thế là đủ”. Mắt cha vụt đỏ hoe. Tôi cũng nghẹn ngào. Cha giục lão Hân cho xe ngựa đi nhanh. Hình như ông sợ trời sáng.
Chiếc xe ngựa hết quành trái đến quẹo phải. Nhiều đoạn gập ghềnh, tôi phải bám vào thành xe cho khỏi ngã. Con ngựa tía ngoan ngoãn kéo chiếc xe men dọc con đường đất đồi đỏ quạch và dừng lại trước một khu vườn. Cha bảo: “Đến rồi”. Lão Hân nhảy xuống, cùng cha tôi khênh chiếc xe lăn và đỡ tôi xuống xe. Trước mắt tôi là một ngôi nhà gỗ xinh xắn như chỉ có đâu đó trong chuyện cổ tích. Ngôi nhà hãy còn mới. Những khóm hoa, cây ăn quả trong vườn đã bén rễ lên xanh. “Nhà của con đó, vào đi!” “Cha không đùa đấy chứ?”. “Con không tin à? Đó là ngôi nhà do chính tay con làm đấy”. Tôi chưa hết bàng hoàng thì lão Hân đã cùng cha tôi ẩy chiếc xe lăn lên dốc. Thêm độ vài chục bước chân, tôi mới thấy rõ từng thoen gỗ nơi cửa cổng cho đến rèm che, mái lá, cột kèo... Tất cả đã qua bàn tay tôi và giờ đây được lắp ghép khéo đẹp đến không ngờ. Được thiết kế theo kiểu nhà rông của dân tộc miền núi nhưng có điều lạ ấy là ngôi nhà này không có cầu thang. Chừng như đọc ra nỗi băn khoăn ấy, cha tôi khẽ khàng: “Muốn lên được sàn nhà, con phải có câu niệm chú”. Lão Hân đã cầm sẵn cây đàn, ấn vào tay tôi. Cha tôi nhỏ giọng. “Giờ thì con hãy đàn và hát bài gì con thích”. Như bị ai thôi miên, như ký ức xa xăm vụt đến, tôi nhắm mắt thả hồn vào bài hát cũ “Nổi lửa lên em” và chờ đợi một cơ may.
Khi câu hát cuối cùng đã nhỏ dần lại, chợt nghe trên đầu mình có tiếng kêu vọng đến: “Anh Lâm!” Mắt mở choàng, tôi không muốn tin vào mình nữa. Đứng trên ban công của tầng sàn chính là Hương - người trong bức ảnh mà cha tôi đã cho xem dưới ánh trăng. Người đàn bà đeo kính đen rờ rẫm tìm cái cần quay ròng rọc, từ từ hạ chiếc cầu thang bằng tre xuống đất. Tôi ngửa mặt ngó lên, há hốc miệng. Mắt nhòa đi, tôi quay về phía sau nhưng không còn thấy cha tôi, cả lão Hân nữa. Lúc này, nắng trong vườn đồi dậy lên, trong và mỏng. Sau lưng tôi, có tiếng rầm rì ngày một nhỏ dần. Là bước chân người hay tiếng lá rừng rơi?
P.T.H
(TCSH366/08-2019)
PHẠM XUÂN PHỤNGĐúng ra, ông cụ Trần Bảo phải có đủ tám người con và người con cuối cùng phải có tên là VÈ mới đủ bộ. Bây giờ gọi tên bảy người con của cụ, nghe cứ thiếu thiếu chút gì: Đờn, Ca, Múa, Hát, Thơ, Ka, Hò. Chấm hết! Tức anh ách, tức nghẹn ngào!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH Tặng anh Tạ Công ThắngMọi thứ, mọi tình huống có thể diễn ra bất cứ lúc nào như bản chất trôi chảy của cuộc sống cho dù bạn không hề mong muốn. Như truyện ngắn này, tất cả được phát hiện, ngắm rọi trong một ngày đẹp trời.
NGUYỄN QUANG LẬPĐời tôi có chi mà kể ông, sau khi thoát chết hàng trăm trận, vốn có chút ít kinh nghiệm tác chiến, được học qua học viện quân sự cao cấp, tôi về làm tư lệnh sư đoàn, thế thôi.
TRẦN THÙY MAIDường như chẳng bao giờ Hà Nội lại rét cắt da như mùa đông năm ấy. Tôi và Ngân chuẩn bị ra xuân sẽ cưới nhau.
LÝ HOÀI XUÂNChị Hạnh hơn tôi những mười tuổi; nghĩa là năm chị biết nhảy cò cò, chơi ô quan thì tôi “oa oa” cất tiếng chào đời. Nghe đâu khi tôi còn ngậm vú mẹ, thỉnh thoảng chị bồng tôi đi chơi nhà hàng xóm.
VŨ THANH HOA1. Bà thầy bói xòe bàn tay có các móng tô đỏ trầy xước, vuốt nhẹ những con bài úp lên nhau thẳng tắp, đoạn bà nhắm mắt, miệng khấn lầm rầm...
LÊ MINH KHUÊ- Anh thấy cậu như thằng bị điện giật ảnh hưởng não bộ thần kinh suốt mấy ngày ù lì ủ rũ. Sao từ hôm bay về Miami đến nay cậu đốc chứng thế. Thật khác hẳn mọi lần. Nghĩ đi nghĩ lại thấy thời gian cho mỗi đời người đâu có bao la bát ngát mà thấy thằng như cậu không tính đếm đong đo rồi yêu đời mà sống.
DƯƠNG THÀNH VŨTiếng súng đã ngưng bặt từ lúc trời sẫm tối. Bị kẹt lại ở khu vực giáp ranh ngoại ô thành phố, người lính ẩn mình vào hàng rào dâm bụt, ở góc vườn sau một ngôi nhà tường xây mái ngói theo kiến trúc cổ truyền.
Nhà văn Dạ Ngân nghỉ việc công sở mấy năm nay, trở về tổ ấm của mình lặng lẽ “chép” lại những vết son trên chặng đời đã qua. Truyện gửi tới Sông Hương dưới đây là góc nhìn rất hẹp về chiến tranh song mở ra trước độc giả nhiều ngã rẽ với một Xuân nữ lỡ mang kiếp đào hoa mà bạc phận cho những người đàn ông từng “hành quân” qua cuộc đời chị. Trân trọng giới thiệu.S.H
CAO LINH QUÂNCó một con Dã Tràng sống ngoài bãi biển Nha Trang.
HÀ KHÁNH LINHĐàn ông tích khí là ngọc, đàn bà tích khí là tặc. Cha nói với mẹ như thế về cô, rồi khen cô suốt một đời trinh bạch, mà vẫn giữ được nết hạnh đoan trang, hiền hòa, dịu dàng và vui vẻ, chứ không khó tính như những phụ nữ có hoàn cảnh tương tự.
NGÔ THỊ KIM CÚCCó ba người bên trong căn phòng nhỏ ấy, căn phòng tập thể dành cho cán bộ độc thân, rộng không đến mười mét vuông. Cửa phòng đóng kín, để chỉ có họ với nhau, cùng những đồ dùng khiêm tốn.
ĐÔNG HÀThả xuống con đường đất đỏ lô hàng cuối cùng xong, tôi rồ ga chạy nhanh vào phía nhỏ hơn của con đường dài ngoằng từ đây về rẫy. Năm mươi cây số cho ba chục phút giữa hun hút rẫy rẫy và rẫy không khó, nhưng sẽ lớ quớ nếu tay lái chệch vào gốc cây đâu đó trong bóng tối chập choạng nhô ra. Nơi đó An đang đợi tôi.
HÀ KHÁNH LINHNgười lính canh chuyển dịch thế đứng của mình trong phạm vi một viên đá lát, khẽ ngửa mặt nhìn vầng trăng vừa ra khỏi đám mây đang dịu dàng tỏa ánh sáng xanh biếc xuống thanh đoản kiếm - chuôi nằm gọn trong lòng tay anh, mũi cắm xuống mặt đá.
NGUYỄN NGỌC LỢIVùng quê đó mấy năm nay có nhiều người đổi đời nhờ nghề mua bán đồ đồng nát. Sắt thép nhôm nhựa, mua đi bán lại cũng thành nhà thành xe... Người ta đập nhà cũ xây nhà mới, mua ô tô, lên đời xe máy... làng xóm đêm ngày rộn rịch chuyện làm ăn buôn bán.
TRẦN THÙY MAILàng tôi nằm ven bờ sông Hiếu, một ngôi làng nhỏ nép sau lũy tre xanh, trông xa như một đám mây dày màu xanh lục nổi lửng lơ trên mặt nước. Tưởng chừng tuổi thơ tôi gắn liền với tiếng lá tre khua xào xạc: sau này, khi tôi đã đi rất nhiều nơi, mỗi lần vọng tưởng về quê, cái âm thanh mơ hồ buồn buồn ấy cứ gieo vào hồn tôi một cảm giác gì mênh mông, khó tả.
MAI NINHNgười đàn bà mở mắt đúng lúc thân sồi già đổ ập. Lũ chim rừng chưa kịp ngừng tiếng kêu thất đảm giữa đám cây đã gẫy gọn dưới sức gió hung bạo, lại đồng loạt ó lên kinh hoảng, cánh đập cuồng trong bóng tối đen khẳn. Bà ta nằm bất động giữa vùng âm thanh xoáy lốc, hỗn loạn gió và chim. Mọi giác quan tê liệt, không gian ngoài và trong đều mù loà tăm tối. Như thế, cho đến lúc gió ngừng và tia mặt trời lách qua được vùng lá cây đặc khít, rọi đúng vào hai tròng mắt dưới làn mi mỏng tanh của người đàn bà thất lạc.
NGÔ HỮU KHOA Hắn nằm sõng soài, hai chân trần thả sát mép nước, đầu gối trên đôi dép lê có cái quai bị đứt được nối lại bằng một mẩu dây thép.
NGUYỄN KHẮC PHỤCÔng X nổi tiếng đến nỗi, chỉ cần tôi nhắc tên ổng trước mặt bạn, bạn sẽ ồ lên đầy vẻ háo hức và lẩm nhẩm hát ngay một giai điệu nào đó trong một bài hát nào đó của ông.