Ngôi nhà không có cầu thang

14:34 13/09/2019

PHAN TRUNG HIẾU

Cha con tôi trú trong một căn nhà tuyềnh toàng cạnh đường cái quan. Mái nhà tranh cũ kỹ, đen xỉn một gam màu lạnh giữa nhà nhà mái tôn, mái ngói, gạch ốp sáng choang. Cũng chả lấy thế làm buồn.

Minh họa: NGUYỄN THIỆN ĐỨC

Nhà mỗi hai người đàn ông, chật một tí lại đâm ra ấm cúng. Độ này cha tôi già đi nhiều. Ông để râu, trải trắng xuống quá khuy áo ngực thứ nhất. Ngày trước ông nổi đình nổi đám trước cánh đàn bà thôn quê với mái tóc chải bồng ngược và tài đàn hát. Mẹ tôi cũng được gái, lại con nhà giàu thế mà đồng ý nhận trầu của cha tôi. Hồi tôi còn nhỏ, nghe mẹ kể: “Tao bị tiếng đàn cha mày bắt mất hồn”. Cha nghe được, nói: “Sao dại thế?” Mẹ lườm: “Tại ông bỏ bùa bỏ phép chứ tôi hám gì loại nghèo xác như ông”. Bà hờn mát thế chứ thương ông thật bụng. Người nhỏ thó lại ham công tiếc việc nên về già chóng đổ bệnh, rồi mất. Đám tang bà, người làng kéo đến dẫm nát cả vuông vườn. Khói hương nghẹt thở, cứ như bếp đun rạ ướt. Từ khi mẹ tôi mất, cha lặng lẽ như một cái bóng. Cây đàn măng-đô-lin im lìm treo trên vách, nguội tênh.

Thừa hưởng dòng máu của cha, tôi cũng yêu âm nhạc nhưng không thích cây măng-đô-lin cũ kỹ. Số tiền dành dụm được mấy mùa tết, tôi nhờ thằng bạn học trên thị xã lùng mua cho cây ghi ta gỗ. Những ngày ở lính, tài lẻ của tôi là niềm tự hào của đơn vị. Đợt hành tiến vào Nam, đơn vị tôi dừng chân ở một xóm dân ven đường cái quan. Nhà bọn tôi trọ có cô con gái tên Hương, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt sáng đẹp như mắt chim câu. Những lúc rỗi, Hương thường bắt tôi đàn hát bài “Nổi lửa lên em”, cho dẫu em chỉ “nuôi quân” cho bọn tôi vẻn vẹn có mấy ngày. Bữa chúng tôi lên đường, Hương khóc miết. Kể tay đại đội trưởng cũng tệ, mờ sáng mới báo lệnh xuất phát. Thế là chẳng kịp có đêm chia tay. Hương tiễn tôi, bàn tay em run rẩy bíu chặt lấy túi áo ngực. Tôi cố gỡ để kịp đuổi theo hàng quân lúc đó đã khuất sau ngõ xóm. Tôi là kẻ không may mắn trong chiến tranh dù rằng ngày về huân, huy chương đính đầy ngực áo, chỗ có dấu tay người con gái bám chặt trước lúc xa. Trong một trận đánh quyết định trước ngày giải phóng, chúng tôi vọt lên chiếm lĩnh trận địa đã rã rời tiếng súng của đám tàn quân. Lúc ấy trong đầu tôi đã thấp thoáng bóng dáng của bờ đê, bãi mía quê nhà. Tôi sẽ trở về trong đoàn quân chiến thắng và tin rằng trong những người ôm hoa đứng vẫy bên đường sẽ có Hương... Một quả mìn phát nổ ngay dưới chân tôi đã cắt đứt niềm mơ tưởng. Như cây chuối bị phát gãy ngang thân, tôi khuỵu xuống, người nhẹ bẫng.

Sau gần ba tháng nằm điều trị ở bệnh viện quân y, tôi bị chuyển trả lại tuyến sau. Hai ống chân tôi dập nát đến mức các bác sĩ phải cho cắt bỏ đến quá đầu gối, sát tận bẹn. Thế là hết. Vĩnh biệt những đôi giày da bóng lộn và những ống quần ly là thẳng tắp! Tôi đau đớn trở về quê. Những bó hoa tươi đầy lòng biết ơn phủ ngập lối về. Tôi hổ thẹn đón những cành hoa mà dáng người tặng luôn luôn cúi xuống. Và tôi đã gặp lại tất cả, chỉ trừ Hương. Lòng dạ tôi rối bời. Muốn được gặp lại em và không muốn cho em gặp lại? Tôi đâu còn là chàng trai phong độ như ngày ấy. Chiến tranh đã tước mất của tôi một nửa chiều cao cho dù hàng ngày tôi đã kê mình lên hai chiếc đòn thấp dùng để đi lại trong nhà. Giờ đây tôi khác gì một đứa bé, mọi sự lớn nhỏ trong cuộc sống đều nhờ vào bàn tay đỡ đần của một người cha. Có người bàn với cha tôi xin tiêu chuẩn người phục vụ hay cho tôi vào ở trong khu điều dưỡng dành cho thương binh nặng. Cha hỏi ý kiến tôi. Tôi níu lấy áo ông, cầu van “cha cho con được ở thế này, với cha”. Cha tôi không bàn chuyện ấy nữa, tự ông xoay xỏa lấy mọi việc. Số tiền chế độ của tôi ông cất riêng và thỉnh thoảng lại bấm đốt tay nhẩm tính. Có bữa, thấy ông vui vẻ: “Tháng này cộng cả tiền lãi ngân hàng nữa là gần 10 triệu”. Tôi băn khoăn: “Đời cha còn được mấy nữa mà dành dụm, chắt bóp?” Cha tôi thở dài thườn thượt: “Thì mày cũng phải có vợ con, có một ngôi nhà cho nó tử tế chứ. Ở mãi thế này được à?” Tôi nói gạt: “Số con đã vậy, ai thèm lấy. Làm người chẳng nên huống hồ làm chồng”. “Thế còn con Hương, mày nghĩ nó chết rồi chắc?” Tôi trố mắt ngạc nhiên. Thì ra, chẳng có chuyện gì giấu ông được. Sáng mai, cha tôi dậy sớm, kêu thằng cháu bên xóm sang dặn dò chuyện cơm nước cho tôi rồi lẳng lặng xách túi, đội mũ ra đi. Nhìn cái dáng lòng còng của ông khuất dần sau cánh cổng, tôi chỉ chực muốn khóc. Tôi thật vô tích sự, suốt đời chỉ quấy quả người.

Rồi tôi cũng được trên ưu tiên cấp cho một chiếc xe lăn. Có xe, thỉnh thoảng tôi đi ra ngoài dạo, tạt vào coi cái chợ xép, mấy quán cóc ven đường. Lũ trẻ con trong xóm như được thấy người sao Hỏa. Chúng tò mò vây quanh chiếc xe và hình nhân kỳ dị. Có lần vui, nhân lúc chúng xán lại gần, tôi mạnh dạn cầm tay một đứa. Con bé lên 6 tuổi hoảng sợ khóc ré lên. Tôi vội buông tay nó, lòng trống rỗng, cho xe quay về nhà.

Cha tôi ngày càng trầm mặc. Ông uống rượu ít hơn. Bữa nhâm nhi độ hai chén nhỏ. Nhìn ông uống rượu mà buồn. Nhấp một hớp, cặp mắt đục mờ tối sầm lại, sâu hun hút. Một bữa, tôi đánh bạo hỏi: “Hay cha thử kiếm việc gì để con làm, ăn không ngồi rồi thế này cũng chán”. Cha nhìn trân trân vào hai ống quần nhũn nhẽo của tôi, nhỏ tiếng: “Vất vả, sợ con không chịu nổi”. “Không, con làm được mà”. Tôi vén ống áo khoe cánh tay vồng lên những múi thịt cuồn cuộn. Mắt cha tôi ánh lên niềm vui. “Để cha nghĩ xem”. Không để tôi đợi lâu. Sáng hôm sau đã thấy cha tôi lừng lững đội một bó lá tro về thả giữa sân. Rồi ông sai thằng cháu vác dao ra vườn chặt tre, đẵn thành từng khúc. “Cha định đan tranh?” - Tôi buột miệng hỏi. Cha tôi gật đầu, bảo: “Con cứ chịu khó đan thật nhiều, cha sẽ mang chợ bán. Nguyên liệu rẻ mà lợp nhà lại bền”. Làm được dăm bảy chục chiếc, cha tôi lại gọi lão Hân xe ngựa - bạn vong niên cùng làng đến chở đi. Dần dà, tôi cũng bớt mặc cảm mình là đồ ăn bám. Nhìn tôi làm, cha vui. Bữa đứa cháu về chơi, thấy tôi xoay xở chật vật với đám dao cưa, nó sấn vào định đỡ một tay. Cha tôi trừng mắt, quát: “Ai khiến, để chú ấy tự làm”. Tội nghiệp, con bé ngơ ngác như cún nhỏ bị mắng. Ít lâu sau, cha tôi bảo: “Tranh bữa nay ế rồi, ta chuyển sang làm đồ gỗ”. Rồi ông ra chợ, sắm sanh đủ thứ dụng cụ làm mộc và mua cả xe gỗ chất một đống to sụ trước sân. Gì chứ nghề mộc cha tôi thạo lắm. Từ cách kéo cưa, xẻ ván đục mộng mẹo cho đến từng nhát bào làm trơn. Mỗi thứ, cha tôi làm một ít, cứ như đang làm phần gỗ cho một ngôi nhà cầu kì nào đấy. Có lần tôi hỏi, ông ừ hữ cho qua chuyện. Biết tính cha không ưa vặn vẹo, tôi không gặng hỏi thêm. Việc nhập đồ gỗ có vẻ nhùng nhằng hơn, có hôm ông theo xe đến mấy ngày mới trở về. Chẳng biết hàng tôi làm thế nào mà trông ông hể hả lắm. Sau gần một năm, công việc rảnh dần, rồi không thấy ông mua thêm gỗ nữa. Ông thu dọn đám đồ nghề lỉnh kỉnh cho vào một cái bao tải buộc túm miệng lại

Đêm đó sáng trăng. Cha rủ tôi uống rượu. Ông thần thừ một lát rồi bảo: “Cha có chuyện này muốn nói với con”. “Chuyện gì hả cha?” Tôi hồi hộp và linh cảm có chuyện gì đấy hệ trọng. “Ngày mai, ta chuyển nhà nhé!” Giọng ông run run. “Sao vậy cha?” Tôi la lên như phải bỏng. “Đây chật chội lại không hợp với con. Vả lại, ngôi nhà này xem ra cũng ọp ẹp lắm rồi. Mà mùa mưa bão lại sắp đến”. “Thế cha định dọn đi đâu?” “Ngày mai hãy hay”. Giọng cha tôi dấm dẳn, ý muốn chuyển sang chuyện khác. Ông lóng ngóng lấy ra từ túi áo ngực một bức ảnh, đưa cho tôi: “Con có thích người phụ nữ này không?” Dưới ánh trăng bàng bạc tôi vẫn nhận ra tấm ảnh chụp nửa người một cô gái tay đan len, cặp kính đen to bản che lấn khuôn mặt trái xoan trắng mịn. Ai mà trông quen quen thế nhỉ? Tôi cố lục tìm trong trí nhớ nhưng bất lực. Cha tôi giục: “Có được không?” “Thưa cha, mình như đũa mốc nào dám chòi mâm son?” Cha tôi làm thêm một hớp rượu nữa rồi thủng thẳng: “Lẽ nào, con lại không còn ước mơ gì về hạnh phúc?” Tôi cúi gằm mặt, mân mê chiếc sẹo trên đùi phải. Những lời nói lấp lửng của cha khuấy lên trong tôi một khát vọng mơ hồ. Mặt tôi tự dưng nóng ran. “Thôi, giờ thì hãy vào đi ngủ đi, mai lên đường sớm”. Cha tôi bảo vậy. Tôi ngoan ngoãn vào nhà, đu lên giường nằm nhưng không tài nào chợp mắt. Cha tôi cũng lật trở suốt đêm. Khuya, ông lén dậy ra ngoài sân. Một lúc sau, có tiếng đàn rỉ rả vọng vào. Cả hát nữa. Giọng hát người già khàn đặc, đùng đục. Một lúc nữa thì tiếng đàn im bặt. Nghe thấy tiếng dép lê loẹt quẹt đi ra phía ngõ và độ nửa tiếng sau, tiếng chân buồn bã ấy mới quay về. Còn tôi, cũng trải qua một đêm đầy mộng mị.

*

Sáng mai, cha dậy sớm. Như đã đâu vào đó, lão Hân đánh xe ngựa đến chở đồ đạc lên xe. Gia tài tôi chẳng có gì ngoài chiếc xe lăn, hòm đạn đựng mấy bộ quần áo bộ đội đã bạc màu, hộp đựng huân, huy chương, bọc giấy cuộn bằng khen, giấy khen, cây đàn ghi-ta gỗ. Thấy cha giục lão Hân lên đường, tôi ngạc nhiên: “Thế còn đồ đạc của cha?” “Chật rồi, chuyến sau rồi tính, cha còn phải trở lại chào bà con chòm xóm”. Tôi thảng thốt ngó lên bức vách: “Thế còn cây đàn măng- đô-lin?” “Cha ném nó xuống sông rồi. Để nó thêm nhớ mẹ mày. Vả lại, đã có cây ghi-ta của con. Thế là đủ”. Mắt cha vụt đỏ hoe. Tôi cũng nghẹn ngào. Cha giục lão Hân cho xe ngựa đi nhanh. Hình như ông sợ trời sáng.

Chiếc xe ngựa hết quành trái đến quẹo phải. Nhiều đoạn gập ghềnh, tôi phải bám vào thành xe cho khỏi ngã. Con ngựa tía ngoan ngoãn kéo chiếc xe men dọc con đường đất đồi đỏ quạch và dừng lại trước một khu vườn. Cha bảo: “Đến rồi”. Lão Hân nhảy xuống, cùng cha tôi khênh chiếc xe lăn và đỡ tôi xuống xe. Trước mắt tôi là một ngôi nhà gỗ xinh xắn như chỉ có đâu đó trong chuyện cổ tích. Ngôi nhà hãy còn mới. Những khóm hoa, cây ăn quả trong vườn đã bén rễ lên xanh. “Nhà của con đó, vào đi!” “Cha không đùa đấy chứ?”. “Con không tin à? Đó là ngôi nhà do chính tay con làm đấy”. Tôi chưa hết bàng hoàng thì lão Hân đã cùng cha tôi ẩy chiếc xe lăn lên dốc. Thêm độ vài chục bước chân, tôi mới thấy rõ từng thoen gỗ nơi cửa cổng cho đến rèm che, mái lá, cột kèo... Tất cả đã qua bàn tay tôi và giờ đây được lắp ghép khéo đẹp đến không ngờ. Được thiết kế theo kiểu nhà rông của dân tộc miền núi nhưng có điều lạ ấy là ngôi nhà này không có cầu thang. Chừng như đọc ra nỗi băn khoăn ấy, cha tôi khẽ khàng: “Muốn lên được sàn nhà, con phải có câu niệm chú”. Lão Hân đã cầm sẵn cây đàn, ấn vào tay tôi. Cha tôi nhỏ giọng. “Giờ thì con hãy đàn và hát bài gì con thích”. Như bị ai thôi miên, như ký ức xa xăm vụt đến, tôi nhắm mắt thả hồn vào bài hát cũ “Nổi lửa lên em” và chờ đợi một cơ may.

Khi câu hát cuối cùng đã nhỏ dần lại, chợt nghe trên đầu mình có tiếng kêu vọng đến: “Anh Lâm!” Mắt mở choàng, tôi không muốn tin vào mình nữa. Đứng trên ban công của tầng sàn chính là Hương - người trong bức ảnh mà cha tôi đã cho xem dưới ánh trăng. Người đàn bà đeo kính đen rờ rẫm tìm cái cần quay ròng rọc, từ từ hạ chiếc cầu thang bằng tre xuống đất. Tôi ngửa mặt ngó lên, há hốc miệng. Mắt nhòa đi, tôi quay về phía sau nhưng không còn thấy cha tôi, cả lão Hân nữa. Lúc này, nắng trong vườn đồi dậy lên, trong và mỏng. Sau lưng tôi, có tiếng rầm rì ngày một nhỏ dần. Là bước chân người hay tiếng lá rừng rơi?

P.T.H  
(TCSH366/08-2019)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • L.T.S: Trần Duy Phiên, người thôn Thanh Thủy Chánh, huyện Hương Điền, Bình Trị Thiên, là một trong những cây bút truyện ngắn chủ chốt của chóm “Việt” - nhóm sáng tác trẻ trong phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy xuất phát ở Huế trước đây.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUNgôi nhà lợp phi-brô xi-măng rộng chừng ba chục thước vuông, nằm sát cổng ra vào xí nghiệp dệt, biệt lập ngoài khu sản xuất, núp dưới tán lá cây bàng, được xây từ ngày xí nghiệp xảy ra các vụ mất cắp vật tư.

  • LÊ CÔNG DOANHChuyến đò dừng lại ở bến cuối cùng khi mặt trời vừa khuất sau rặng tre bên kia sông. Hiếu nhảy lên bờ và bước đi trong cảm giác chòng chành bởi gần trọn một ngày phải ngồi bó chân trong khoang đò chật.

  • L.T.S: Tác giả Hoàng Nguyệt Xứ tên thật là Hoàng Trọng Định, từng in truyện và thơ trên Sông Hương và nhiều tạp chí văn nghệ khác. Tác phẩm của anh để lại dấu ấn trong dòng chảy văn học của Huế với những truyện ngắn đậm tính triết lý, văn phong ám gợi sâu xa.Truyện dưới đây được Sông Hương dàn trang lúc anh còn sống... trân trọng gửi tới bạn đọc; cũng là nén tâm nhang xin chia buồn cùng người thân của anh.

  • TRẦN THÙY MAINếu cuộc đời được hình dung như một con đường thỉnh thoảng lại băng qua ngã tư, ngã ba hay rẽ ngoặt thì trong đời tôi có hai khúc quanh lớn nhất.

  • THÙY ANHồi nhỏ, tôi có cái tật làm nớt. Hở một chút là nước mắt tuôn ra giọt ngắn giọt dài. Anh chị xúm lại chọc: “Lêu lêu, mu khóc móc kh… ruồi bu kiến đậu…”, nhưng mẹ thì không, chỉ an ủi dỗ dành.

  • TRẦN HỮU LỤCKhi từ biệt làng nổi trên sông, ông Ngự tưởng mình quên được chiếc bóng vật vờ trên sông nước, quên bốn mươi năm gắn bó với những vạn đò. Ông Ngự chỉ mang theo đứa con gái duy nhất và cái máy bơm nước hiệu Yama của Nhật Bản đến vùng đất mới.

  • NGUYỄN QUANG LẬPQuá nửa đời người anh chị mới gặp nhau. Âu đó cũng là chuyện thường tình. Sau hai mươi mốt phát đại bác vang trời báo tin ngày toàn thắng, có hàng ngàn cặp vợ chồng cách biệt hàng chục năm đã tìm lại nhau.

  • PHẠM NGỌC TÚYMột buổi chiều như bao buổi chiều khác, Kim ngồi ở bàn giấy với trang viết đang chi chít chữ. Tiếng chuông điện thoại kêu vang dòn dã vào một thời điểm không thích hợp; thầm mong người nào gọi lộn máy Kim uể oải nhấc ống nghe lên.

  • BẠCH LÊ QUANG(Người đàn bà gối giấc ngủ trên cánh tay của biển - Thơ LHL)

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGLão Hinh lồng lộng như một con chó già bị mắc bẫy. “Mày cút khỏi nhà tau. Nhà tau không chứa chấp đứa con gái hư hỏng như mày…”. Miệng chửi, tiện tay lão vứt túi xách của Hằng ra đường. Chiếc túi nhỏ đã sứt quai, màu bạc thếch rơi tọt xuống miệng cống.

  • MAI SƠNRa khỏi cổng cơ quan quân sự tỉnh, ông Năm gần như muốn la lên - niềm sung sướng vỡ òa trong lòng ông, hiện thành đường nét trên mặt mũi. Dù biết có người lính cảnh vệ đang đứng nghiêm nhìn theo, ông không ngăn được, vẫn bật lên tiếng cười “khà, khà”…

  • HOÀNG GIÁBên kia sông, làng Mả-Mang, có cụ già trăm tuổi quy tiên, Thầy Khâu-đà-la chèo con thuyền nhỏ vượt dòng sông Dâu sang làm lễ.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC1.Hiu hiu gió thổi qua quán nhậu vỉa hè một xế trưa năm ba người tranh thủ chút thì giờ ngồi tán chuyện chỉ đủ phơ phất mấy tờ giấy lau đũa dùng xong được quẳng xuống nằm lớt thớt dưới đất.

  • NGUYÊN QUÂNQuyết thận trọng len qua khoảng vườn, đêm tối mịt mùng, không gợn chút ánh trăng sao, anh đi lần bước theo ký ức, cố gắng tránh gây tiếng động. Những cái lá khô giòn, nhành cây mục vương vãi làm anh bực mình chửi thầm “Mẹ nó, biết thế này hồi chiều chịu khó quét dọn chừ đỡ khổ”.

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNG     Để tưởng nhớ nhà thơ Hoàng Cầm

  • PHAN THỊ THU QUỲVợ chồng Bình và Lựu đang sống ở Kim Long một làng ven sông Hương thơ mộng, nổi tiếng có quán ăn ngon, khách lui tới tấp nập. Cả hai người lòng buồn tê tái khi Bình có lệnh đổi vô Tây Nguyên. Tốt nghiệp đại học Luật xong Bình bị chính quyền cũ bắt vô lính, chạy mãi được làm lính văn phòng tại quê, nay phải đi xa thật lo lắng, buồn nản. Mai Bình phải lên đường cấp tốc. Ôi! Rủi ro, khác gì một hoạn nạn đến.

  • THÁI NGỌC SANSau khi trở về quê cũ một thời gian bà Phán trở thành trung tâm chú ý của mọi người. Trước hết là bọn con nít. Chúng cứ hô váng lên “mệ Phán muôn năm” mỗi khi bà mua kẹo vung vãi cho chúng.

  • PHẠM PHÚ PHONGTôi ngồi bất động, tựa như nuốt phải một cây gậy, người cứng đờ, im lặng, cho đến khi bản nhạc chấm dứt. Nguyễn Hương cũng im lặng ngồi đối diện góc tường, châm thuốc hút. Mới mấy năm không gặp, bây giờ trông anh đã khác hẳn. Đầu tóc hớt cao, lưỡng quyền nhô ra. Thời gian đã kịp cày xới, để lại trên trán anh những đường rãnh nhỏ.