Ngôi nhà có thật

14:36 28/08/2015

LÊ MINH PHONG   

Huế trở lạnh. Đó là một điều hết sức quý giá với tôi. Buổi chiều, tôi mông lung bước trên hè phố khi tiếng chuông nhà thờ đang bay như những cánh chim trên không trung. Tất nhiên đó là những cánh chim không rõ hình thù.

Minh họa: Lê Minh Phong

Tôi luôn nói như thế, tôi luôn có cái cách nói không đâu vào đâu như thế. Tôi dừng lại bên một hiệu sách cũ. Những cuốn sách đã úa vàng, những cuốn sách cũ luôn là niềm an ủi đối với tôi vào những đêm khuya. Trong hàng ngàn cuốn sách cũ kĩ này, tôi biết, có nhiều món quà đang chờ đợi tôi. Đôi khi, trong những cuốn tưởng như gần mục nát, tôi lại bắt gặp những giấc mơ của tôi, những giấc mơ lạ lùng, những giấc mơ mà tôi đã quên mất. Thỉnh thoảng, tôi cũng bắt gặp những hình ảnh xưa cũ ùa về trong những cuốn sách này. Đó là những hình ảnh về tuổi thơ tôi, về những ngày tháng mà tôi còn rất ngây thơ để mơ mộng, để thấy mình to lớn lắm.  

Sau chồng sách cũ có một cô bé đang nhìn tôi. Tôi bỏ cuốn Ba chàng lính ngự lâm của Alexandre Dumas vào chồng sách mà tôi đã chọn rồi ngước lên nhìn cô bé. Đôi mắt thiên thần của cô bé cuốn hút tôi. Tôi nhìn nó như nhìn một điều gì đó hết sức gần gũi, quen thuộc. Có lẽ tôi đã gặp đôi mắt ấy ở đâu đó rồi mà giờ tôi không thể nhớ ra được. Cô bé vẫn nhìn chằm chằm vào tôi, nó nép sau chồng sách và cứ nhìn tôi như thế. Tôi vẫn cúi xuống lựa sách, tôi lật một vài trang cuốn Suối Nguồn rồi lại ngước lên nhìn cô bé. Cô bé vẫn đang nhìn tôi. Đúng là đôi mắt ấy rất quen, tôi đã gặp cô bé này ở đâu đó rồi nhưng bây giờ tôi không thể nhớ ra được. Tôi bước về phía cô bé. Tôi mỉm cười chào nó, nó vẫn nhìn vào tôi không hề chớp mắt. Bây giờ tôi và cô bé chỉ cách nhau một chồng sách. “Sao thế?” Tôi cất tiếng rồi cúi xuống trước mặt cô bé. Nó vẫn nhìn vào mắt tôi. Cô bé không trả lời tôi. Mắt nó ngấn nước. “Con tên gì?” Tôi hỏi. “Linh.” Cô bé nói. “Con làm gì ở đây?” Tôi hỏi. “Con chờ chú.” Cô bé nói. “Chờ chú?” Tôi ngạc nhiên hỏi. Tôi tưởng rằng trên thế gian này sẽ không có bất cứ ai đang chờ đợi tôi. Sẽ chẳng có ai chờ đợi một nhà văn quê mùa, nhếch nhác và vô danh như tôi cả. Giữa vùng đất trầm mặc này, cô đơn chính là gia tài của tôi. Nơi đây, tôi cảm nhận được sự lạnh lùng của ngày tháng, những bản nhạc sầu muộn giữa thành phố mưa bay là chỗ mà tôi bấu víu. Tôi đu mình trong những bản tình ca tiền chiến rồi nhìn thành phố cuồng nộ với những âm thanh chát chúa va đập vào nhau. Tôi không nghĩ rằng ở nơi như thế này lại có người đang chờ đợi tôi.

“Chú không biết con.” Tôi nhìn cô bé rồi nói. “Chú ác lắm.” Nó nói trong khi mắt nó vẫn ứa lệ. Cô bé gầy gò có đôi mắt thiên thần nhìn vào tôi rồi nói rằng tôi ác lắm trong khi tôi không thể nhớ rằng mình đã gặp cô bé này ở đâu. Đôi mắt đó vô cùng quen thuộc. Một đôi mắt mọng nước và u buồn. “Chú ác sao?” Tôi nói. Bây giờ thì cô bé ngồi bệt xuống rồi òa khóc. Có mấy người khách đang lựa sách nhìn về phía chúng tôi. Thực tình bây giờ tôi không biết phải làm sao. Tôi bỏ chồng sách trên tay và đỡ cô bé đứng lên. Tôi lấy tay gạt nước mắt trên má nó và cố hỏi xem nó là ai và thực tình thì vì sao nó lại đứng đây chờ tôi.  

Tôi đưa cô bé ra khỏi quầy sách. Bây giờ hai chúng tôi đang đứng trên hè phố. Những cơn gió lạnh thổi mạnh làm tóc cô bé rối tung trong những cơn nấc tội nghiệp. “Nào, có phải cháu nhầm chú với một ai đó không? Nhìn kỹ lại chú xem nào.” Tôi nói. “Không.” Cô bé nói. “Chú là chú Phong, đúng không, chú ác lắm.” Bây giờ thì tôi ngỡ ngàng thực sự. Cô bé gọi đúng tên tôi và lại nói tôi độc ác trong khi tôi không thể nhớ ra là mình đã gặp nó ở đâu chứ chưa nói gì đến việc là tôi có thể nhớ được tôi đã làm gì cô bé.  

“Cháu đã chờ đợi chú như chờ đợi giấc mơ của cháu. Gia đình cháu chờ đợi chú như chờ đợi một niềm hi vọng. Ba mẹ cháu chờ đợi chú như chờ đợi một giấc mơ về một ngôi nhà có thật trong thành phố…” Cô bé òa khóc và nắm lấy tay tôi. Bàn tay nhỏ xinh của nó lạnh quá, tôi cảm nhận sự lạnh lẽo này như đi ra từ chính trái tim của nó. “Nào, nhìn chú nào. Vì sao?” Tôi nói. “Chú, cứu lấy gia đình cháu với, cứu lấy sự vô vọng của ba mẹ cháu với. Sao chú lại đẩy ba mẹ cháu vào cảnh khốn cùng này chứ?” Đến đây thì tôi bắt đầu cảm thấy có một sự phi lý nào đó trong chuyện này. Tôi nắm chặt hai tay lên vai cô bé và hét toáng lên: “Tại sao?”  

“Mẹ cháu vừa sinh em bé, người ta đã đuổi việc mẹ cháu. Ba cháu vừa gãy chân xong, chú quên rồi sao, ba cháu làm việc trong một xí nghiệp gỗ. Những thanh gỗ lớn đã bất ngờ lăn xuống đè lên chân ba cháu. Chú đã đưa ba cháu vào trong cái xí nghiệp đó với những lời hứa về một tương lai ổn định. Nhưng bây giờ…” Cô bé lại òa khóc. Càng lúc tôi càng không hiểu điều quái quỷ gì đã xảy ra. Tôi không hề hay biết gì về những điều cô bé nói. Tôi cho rằng có một sự nhầm lẫn nào đó trong cô bé nhưng nó biết cả tên tôi, nó không nhầm lẫn tôi với bất cứ một người nào khác. “Chú đưa gia đình cháu vào Huế với những hứa hẹn nhưng bây giờ những giấc mơ mà chú nói đã vỡ tan rồi. Cháu không chịu nổi tiếng rên đau đớn của ba cháu hòa vào tiếng khóc vì đói sữa của em cháu. Mẹ cháu khóc cạn nước mắt rồi. Chủ nhà trọ cũng sắp sửa đuổi gia đình cháu đi, đã ba tháng nay nhà cháu không có tiền trả tiền thuê trọ. Chú ơi, ngôi nhà mà chú nói ấy ở đâu?” Cô bé lại òa khóc, tôi mặc nước mắt nó chảy xuống trên tay tôi. Tôi, tôi không biết đây có phải là sự thật không.  

“Cháu đến từ đâu?” Tôi rống lên.

“Từ trong truyện Ngôi nhà có thật của chú?”

“Ngôi nhà có thật? Tôi nói.

“Chú không nhớ thật sao?” Cô bé nói. “Chú đã viết nó vào bốn năm trước, lúc đấy cháu mới năm tuổi.”

Đúng rồi, bây giờ thì tôi nhớ ra rồi. Tôi đã viết truyện ngắn Ngôi nhà có thật vào bốn năm trước. Truyện ngắn đó tôi viết về một gia đình sống bằng nghề đánh cá trên sông La. Ngày đó, tôi đang ở Hà Tĩnh, một buổi chiều, khi tôi đang đi dạo trên bờ sông thì tôi đã bắt gặp ánh mắt vô vọng của một người đàn ông và đôi mắt ngây thơ của một cô bé khoảng bốn năm tuổi gì đó. Tôi bắt chuyện với họ và họ đã nói về cuộc sống khốn cùng, về những ngôi nhà và về ước mơ được tới trường của cô bé. Tối hôm đó, tôi đem họ vào truyện ngắn của tôi với tất cả sự yêu thương và niềm hi vọng. Tôi đưa họ vào truyện ngắn của tôi và tôi nói với họ hãy vào Huế, đó là mảnh đất có thể thoát khỏi những khốn khó của họ. Bởi Huế là thành phố của hi vọng. Linh. Đúng rồi, cô bé ngày ấy tên là Linh, tôi nhớ ra rồi, lỗi thuộc về tôi. Trong truyện đó, tôi đã đưa họ tới Huế, rồi vì cuộc sống, vì viết lách mà tôi quên mất họ. Tôi không thể biết được sự khốn cùng vẫn đeo bám họ cho tới hôm nay.

“Ba cháu tên Dũng phải không Linh?” Tôi hỏi cô bé.

“Chú nhớ ra rồi đó.” Cô bé nói. “Ngôi nhà mà chú đã vẽ lên cho gia đình cháu bây giờ ở đâu?” Cô bé nói. Lòng tôi thắt lại. Phải rồi. Trong truyện ngắn ngày đó tôi đã viết về một ngôi nhà có thật, một ngôi nhà màu trắng với hàng rào làm bằng hoa leo, ngôi nhà có những giá sách và lò sưởi, ngôi nhà có những hành lang rộng lớn và những phòng ngủ treo đầy tranh. Đúng rồi, ngày đó tôi đã viết về một ngôi nhà như thế và nói với gia đình Linh hãy luôn nghĩ tới nó khi gia đình tới Huế. Ôi, những nhân vật khổ sở của tôi. Tôi không ngờ sự thật quá trần trụi bên cạnh những ước mơ viển vông khốn nạn của tôi, của một nhà văn vô danh lắm mơ mộng hão huyền.  

Bây giờ thì tôi ôm riết lấy cô bé. Mặc cảm tội lỗi tràn về trong tôi. Tôi tưởng rằng tất cả chỉ là hư cấu, nhưng không, đó là sự thật. Tôi phải có trách nhiệm về những nhân vật của tôi khi tôi thổi vào họ những ước mơ lớn lao rồi bỏ mặc họ giữa cuộc mưu sinh khốn khó này. Linh nói với tôi về những tiếng rên đau đớn của ba nó trong đêm, tiếng khóc đói sữa của em nó và những tiếng tru tréo của mụ chủ nhà. Linh nói với tôi về việc ba nó thường nhắc tới ngôi nhà mà tôi đã vẽ lên bằng ngôn từ cách đây bốn năm. “Đó không bao giờ là ngôi nhà có thật.” Linh nói.  

Hai chúng tôi bước đi vô định trên hè phố. Huế càng về chiều trời càng lạnh, và lòng tôi càng lạnh hơn. Tôi nhìn những người công nhân với đôi mắt mệt mỏi sau giờ tan ca đang bước về những căn phòng trọ tồi tàn rồi tự hỏi trong số họ còn có ai là nhân vật của tôi không. Tôi nắm chặt lấy tay cô bé rồi lại bước đi. Chúng tôi không biết chúng tôi sẽ đi đâu. Chúng tôi đi qua dưới những ngôi nhà bằng kính, đi qua những quán ăn nghi nghút khói. Linh nói nó đói và tôi cùng nó tạt vào một quán phở bên đường. Nhìn Linh ngấu ngiến bát phở mà tôi muốn khóc, có lẽ lâu rồi cô bé đã không được ăn. “Ngon không Linh?” Tôi hỏi. “Cháu có thể ăn thêm một bát nữa không?” Linh nói.  

Linh nói với tôi rằng hãy đưa gia đình nó trở về. Nhưng tôi biết, nếu bây giờ mà trở về trên sông La thì ba Linh và em gái của nó sẽ không thể chịu đựng được tiếng rít của những cơn gió lạnh trên sông. Tôi không muốn gia đình nó lại lênh đênh trên sông nước, lại đói khổ nhìn những cái tết leo lắt lướt qua trên xóm chài hiu hắt.

Phố đã lên đèn. Đằng kìa là chợ Đông Ba. Nhìn cảnh khu chợ dưới ánh đèn vàng tôi lại càng sợ hãi. Lòng tôi hoang vắng, tôi siết chặt tay Linh mong tìm một hơi ấm nhưng tay của Linh cũng lạnh. Chúng tôi bên nhau, cùng tìm kiếm hơi ấm trong đêm.  

“Ngôi nhà đó chỉ là sự tưởng tượng của chú phải không?” Cô bé hỏi tôi.

“Tưởng tượng, đó chỉ là một sự tưởng tượng.” Tôi nói.

“Sự tưởng tượng của chú đã dồn gia đình cháu vào hoàn cảnh này đấy.” Linh nói. Tôi không nói. Tôi nhìn loài thiêu thân đang lao vào ánh đèn trên đường phố. Tôi nói với cô bé rằng đôi khi chúng ta phải biết giữ lấy những hình ảnh đến từ tưởng tượng. “Một ngày nào đó cháu sẽ phải học cách sống bằng tưởng tượng, sự tưởng tượng đôi khi nuôi dưỡng chúng ta, khiến chúng ta thoát khỏi đau buồn.” Tôi nói. “Cháu không hề biết tưởng tượng.” Linh nói.

“Lỗi của chú lớn lắm phải không?” Tôi hỏi. “Cháu không biết, cháu chỉ nghĩ rằng chỉ có chú mới chữa lành được chân của ba cháu và chỉ có chú mới có thể cho gia đình cháu một ngôi nhà, một ngôi nhà không nóng như lò than vào mùa hè và không có những cơn gió lùa vào khi trời rét mướt.” Linh nói.

Tôi không biết mình có thể làm được những điều tuyệt diệu đó hay không. Tôi chỉ biết rằng tôi có thể tạo nên được những nhân vật, nhân vật của tôi thường là những người khốn cùng trong xã hội, đôi khi, tôi đem đến cho họ một ít ánh sáng, đôi khi tôi đẩy họ vào đêm tối mịt mùng… Rồi khi, câu chuyện kết thúc, tôi không thể biết số phận của những nhân vật sẽ đi về đâu, họ hạnh phúc, ngập tràn hi vọng hay tuyệt vọng và trở nên bần cùng...

Càng về khuya mưa càng nặng hạt hơn, hai chúng tôi nép vào nhau ngồi co ro dưới một hiên nhà bằng kính. Linh hỏi tôi về sự thật và hư cấu. Tôi nói rằng sự thật thì luôn đau khổ và hư cấu đôi khi giúp chúng ta trở nên mộng mơ và sẽ tìm được những phút giây bình yên bằng cách đu mình theo những mộng tưởng đó. “Chú có thấy mình tàn nhẫn khi chú không đi hết số phận của những nhân vật mà chú tạo ra không, chú có thấy đau đớn khi câu chuyện của chú kết thúc nhưng cuộc đời của những nhân vật trong truyện của chú vẫn tồn tại và họ phải đối mặt với những rủi ro khôn lường không chú?” Linh úp mặt vào ngực tôi rồi thều thào nói. Tôi nghe như có những tảng băng khổng lồ trong lòng ngực tôi đang lớn dần lên như những con quái vật không ngừng gào rú.  

Trong đêm, chúng tôi vẫn thì thầm trò chuyện. Những người đàn bà đi ăn đêm nhìn chúng tôi thương xót. Họ lướt qua trước mặt hai chúng tôi như những linh hồn vật vờ đi trong nghĩa địa. Tôi lại nghĩ rằng trong số những người đàn bà đau thương đó có ai là nhân vật của tôi không. Tại sao tôi lại tạo ra họ và để mặc họ giữa cuộc mưu sinh đầy bất trắc này?  

“Bây giờ gia đình cháu phải làm sao?” Linh hỏi tôi. Tôi lấy tay vuốt những giọt nước mưa trên tóc cô bé. “Phải tưởng tượng, tất cả chúng ta phải bắt đầu học cách tưởng tượng, chỉ có tưởng tượng mới cho chúng ta những đôi cánh để bay lên.” Tôi nói. “Nhưng cháu không biết tưởng tượng.” Linh nói. “Nào, hãy đứng lên, cháu hãy nhìn về phía có những vệt sáng xa tít cuối trời, đó là những vệt sáng trong đêm mưa, đó là những tia hi vọng của chúng ta.  Hãy nắm lấy tay chú và nhìn về phía có những vệt sáng đó.” Tôi nói.  

Cả hai chúng tôi đứng lên và nhìn về phía có những vệt sáng yếu ớt trong màn mưa đêm. “Những vệt sáng ấy xa lắm đúng không chú?” Linh hỏi tôi. “Ừ, xa lắm.” Tôi nói. “Cháu hãy nghĩ rằng những vệt sáng đó chính là những con đường, những con đường đầy ánh sáng, cháu có thấy không?” Tôi nói. “Có, cháu bắt đầu thấy những con đường xuất hiện, và hoa nữa, chú ơi có hoa nữa…” Linh nói. “Đúng rồi, nào, tiếp tục đi, cháu hãy nghĩ tới cuối con đường màu trắng ấy có một ngôi nhà, đó là ngôi nhà mà chú đã viết trong truyện Ngôi nhà có thật vào mấy năm trước, cháu nhìn qua cửa sổ kìa, cháu hãy nhìn qua khung cửa sổ cháu sẽ thấy em cháu, em cháu đang nhoẻn miệng cười, cháu thấy không?” Tôi nói. “Có, cháu còn nhìn thấy ba cháu đang đọc sách, chú ơi, ba cháu đang đọc cuốn Niềm hi vọng. Mẹ cháu đang làm gì thế chú?” Linh nói. “Mẹ cháu đang bận rộn trong bếp, cháu hãy nhìn về phía cuối ngôi nhà đi, đấy, mẹ cháu đang rất bận rộn với những ngọn lửa trong bếp với đôi má ửng hồng và những món ăn thơm lừng, nào, hãy nhìn về phía có những vệt sáng ấy đi. Đừng quay lại, đừng bao giờ quay đầu lại, hãy nhìn về phía có những vệt sáng ấy…” Tôi nói.  

Cứ thế, hai chúng tôi đứng trong đêm mưa nhìn về phía có những vệt sáng xa xăm. Chúng tôi cứ nhìn như thế và sẽ không bao giờ quay đầu trở lại cho tới khi nào chúng tôi mọc những đôi cánh màu trắng sau lưng mình.

L.M.P
(SH318/08-15)  






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN NGỌC LỢITối đó bản Phiệt có buổi liên hoan văn nghệ. Cơm chiều xong Tản đưa tôi vào đó chơi. Chúng tôi đang chuẩn bị đi thì một cô đang dẹp đám cuốc xẻng trong góc lán nói vọng ra. Anh Tản mà đưa anh ấy đi thì có mà... Anh ấy đẹp trai, gái bản theo hết, mất phần đấy... Tản cười, cho theo bớt chứ một mình tôi... mệt lắm.

  • LÊ NGUYÊN NGỮTrong bối cảnh rạt rào gió bấc và nắng trải vàng như mật bên ngoài báo hiệu Tết sắp vê, con ngựa cũng đứng dạng bốn chân như lắng nghe câu chuyện đầy hoài niệm mà Tư Gồng bắt đầu kể tôi nghe. Giản dị vì đây là câu chuyện về chính nó, Tư Gồng trước kia đã lần khân hẹn khất với tôi chờ đến Tết Con Ngựa. Mà lúc này thì đã là cuối tháng chạp rồi.

  • NGUYỄN QUANG LẬPChiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đen gọng vàng.

  • ĐỖ KIM CUÔNG1... Cho đến lúc sực tỉnh, tôi mới nhận ra con đường ra cánh đồng tôm và những vườn dừa dưới chân núi Đồng Bò.

  • HỒNG NHU Xóm phố nằm trên một khu đất trước đây là một dẫy đồi nghe nói vốn là nơi mồ mả dày đặc, phần lớn là mồ vô chủ không biết từ bao đời nay; và cũng chẳng biết nơi nào có nơi nào không, bởi vì gần như tất cả mồ mả ở đó đều đã bị thời gian mưa gió bào mòn, chẳng còn nấm ngôi gì cả.

  • TRẦN HẠ THÁP1*Gã nằm xuống thoải mái. Cảm giác mát lạnh của ghế đá còn rịn hơi sương buổi sớm thu giúp gã chợp mắt ngay. Công viên thành phố không chỉ là bạn đời của những ai không nhà, các tên chích choác, kẻ sống ngoài vòng luật pháp... Đây cũng là nơi khá thân quen đối với người như gã. Ít ra đã hơn bốn tháng qua, từ khi gã rời một khách sạn năm sao trong thành phố.

  • THÁI KIM LAN"Làm sao biết từng nỗi đời riêngĐể yêu thương yêu cho nồng nàn”                              Trịnh Công Sơn

  • THÁI KIM LAN(tiếp theo)

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNGLGT: Cuộc sống cứ lao về phía trước, song những tâm hồn đa cảm thì lại hay ngoảnh nhìn về phía sau. Nước nhảy lên bờ là ánh nhìn về những ngày đã qua giữa một vùng quê bình yên của “đêm trước đổi mới”. Một bức tranh quê sống động, dung dị song ngổn ngang những cảnh đời, những cảnh tình mà chúng ta không được phép quên, bởi tư duy đổi mới của đất nước hãy còn tiếp diễn...

  • VĨNH NGUYÊNNgô - bạn tôi rủ tôi về làng Chẻ.Đến thành phố H.H., tôi mượn chiếc xe máy của một người quen. Tôi chở Ngô về làng An Hải Trung.

  • I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.

  • Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...

  • Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.

  • Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.

  • Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.

  • Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.

  • Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.

  • Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.

  • Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.

  • 1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.