Ngôi nhà có thật

14:36 28/08/2015

LÊ MINH PHONG   

Huế trở lạnh. Đó là một điều hết sức quý giá với tôi. Buổi chiều, tôi mông lung bước trên hè phố khi tiếng chuông nhà thờ đang bay như những cánh chim trên không trung. Tất nhiên đó là những cánh chim không rõ hình thù.

Minh họa: Lê Minh Phong

Tôi luôn nói như thế, tôi luôn có cái cách nói không đâu vào đâu như thế. Tôi dừng lại bên một hiệu sách cũ. Những cuốn sách đã úa vàng, những cuốn sách cũ luôn là niềm an ủi đối với tôi vào những đêm khuya. Trong hàng ngàn cuốn sách cũ kĩ này, tôi biết, có nhiều món quà đang chờ đợi tôi. Đôi khi, trong những cuốn tưởng như gần mục nát, tôi lại bắt gặp những giấc mơ của tôi, những giấc mơ lạ lùng, những giấc mơ mà tôi đã quên mất. Thỉnh thoảng, tôi cũng bắt gặp những hình ảnh xưa cũ ùa về trong những cuốn sách này. Đó là những hình ảnh về tuổi thơ tôi, về những ngày tháng mà tôi còn rất ngây thơ để mơ mộng, để thấy mình to lớn lắm.  

Sau chồng sách cũ có một cô bé đang nhìn tôi. Tôi bỏ cuốn Ba chàng lính ngự lâm của Alexandre Dumas vào chồng sách mà tôi đã chọn rồi ngước lên nhìn cô bé. Đôi mắt thiên thần của cô bé cuốn hút tôi. Tôi nhìn nó như nhìn một điều gì đó hết sức gần gũi, quen thuộc. Có lẽ tôi đã gặp đôi mắt ấy ở đâu đó rồi mà giờ tôi không thể nhớ ra được. Cô bé vẫn nhìn chằm chằm vào tôi, nó nép sau chồng sách và cứ nhìn tôi như thế. Tôi vẫn cúi xuống lựa sách, tôi lật một vài trang cuốn Suối Nguồn rồi lại ngước lên nhìn cô bé. Cô bé vẫn đang nhìn tôi. Đúng là đôi mắt ấy rất quen, tôi đã gặp cô bé này ở đâu đó rồi nhưng bây giờ tôi không thể nhớ ra được. Tôi bước về phía cô bé. Tôi mỉm cười chào nó, nó vẫn nhìn vào tôi không hề chớp mắt. Bây giờ tôi và cô bé chỉ cách nhau một chồng sách. “Sao thế?” Tôi cất tiếng rồi cúi xuống trước mặt cô bé. Nó vẫn nhìn vào mắt tôi. Cô bé không trả lời tôi. Mắt nó ngấn nước. “Con tên gì?” Tôi hỏi. “Linh.” Cô bé nói. “Con làm gì ở đây?” Tôi hỏi. “Con chờ chú.” Cô bé nói. “Chờ chú?” Tôi ngạc nhiên hỏi. Tôi tưởng rằng trên thế gian này sẽ không có bất cứ ai đang chờ đợi tôi. Sẽ chẳng có ai chờ đợi một nhà văn quê mùa, nhếch nhác và vô danh như tôi cả. Giữa vùng đất trầm mặc này, cô đơn chính là gia tài của tôi. Nơi đây, tôi cảm nhận được sự lạnh lùng của ngày tháng, những bản nhạc sầu muộn giữa thành phố mưa bay là chỗ mà tôi bấu víu. Tôi đu mình trong những bản tình ca tiền chiến rồi nhìn thành phố cuồng nộ với những âm thanh chát chúa va đập vào nhau. Tôi không nghĩ rằng ở nơi như thế này lại có người đang chờ đợi tôi.

“Chú không biết con.” Tôi nhìn cô bé rồi nói. “Chú ác lắm.” Nó nói trong khi mắt nó vẫn ứa lệ. Cô bé gầy gò có đôi mắt thiên thần nhìn vào tôi rồi nói rằng tôi ác lắm trong khi tôi không thể nhớ rằng mình đã gặp cô bé này ở đâu. Đôi mắt đó vô cùng quen thuộc. Một đôi mắt mọng nước và u buồn. “Chú ác sao?” Tôi nói. Bây giờ thì cô bé ngồi bệt xuống rồi òa khóc. Có mấy người khách đang lựa sách nhìn về phía chúng tôi. Thực tình bây giờ tôi không biết phải làm sao. Tôi bỏ chồng sách trên tay và đỡ cô bé đứng lên. Tôi lấy tay gạt nước mắt trên má nó và cố hỏi xem nó là ai và thực tình thì vì sao nó lại đứng đây chờ tôi.  

Tôi đưa cô bé ra khỏi quầy sách. Bây giờ hai chúng tôi đang đứng trên hè phố. Những cơn gió lạnh thổi mạnh làm tóc cô bé rối tung trong những cơn nấc tội nghiệp. “Nào, có phải cháu nhầm chú với một ai đó không? Nhìn kỹ lại chú xem nào.” Tôi nói. “Không.” Cô bé nói. “Chú là chú Phong, đúng không, chú ác lắm.” Bây giờ thì tôi ngỡ ngàng thực sự. Cô bé gọi đúng tên tôi và lại nói tôi độc ác trong khi tôi không thể nhớ ra là mình đã gặp nó ở đâu chứ chưa nói gì đến việc là tôi có thể nhớ được tôi đã làm gì cô bé.  

“Cháu đã chờ đợi chú như chờ đợi giấc mơ của cháu. Gia đình cháu chờ đợi chú như chờ đợi một niềm hi vọng. Ba mẹ cháu chờ đợi chú như chờ đợi một giấc mơ về một ngôi nhà có thật trong thành phố…” Cô bé òa khóc và nắm lấy tay tôi. Bàn tay nhỏ xinh của nó lạnh quá, tôi cảm nhận sự lạnh lẽo này như đi ra từ chính trái tim của nó. “Nào, nhìn chú nào. Vì sao?” Tôi nói. “Chú, cứu lấy gia đình cháu với, cứu lấy sự vô vọng của ba mẹ cháu với. Sao chú lại đẩy ba mẹ cháu vào cảnh khốn cùng này chứ?” Đến đây thì tôi bắt đầu cảm thấy có một sự phi lý nào đó trong chuyện này. Tôi nắm chặt hai tay lên vai cô bé và hét toáng lên: “Tại sao?”  

“Mẹ cháu vừa sinh em bé, người ta đã đuổi việc mẹ cháu. Ba cháu vừa gãy chân xong, chú quên rồi sao, ba cháu làm việc trong một xí nghiệp gỗ. Những thanh gỗ lớn đã bất ngờ lăn xuống đè lên chân ba cháu. Chú đã đưa ba cháu vào trong cái xí nghiệp đó với những lời hứa về một tương lai ổn định. Nhưng bây giờ…” Cô bé lại òa khóc. Càng lúc tôi càng không hiểu điều quái quỷ gì đã xảy ra. Tôi không hề hay biết gì về những điều cô bé nói. Tôi cho rằng có một sự nhầm lẫn nào đó trong cô bé nhưng nó biết cả tên tôi, nó không nhầm lẫn tôi với bất cứ một người nào khác. “Chú đưa gia đình cháu vào Huế với những hứa hẹn nhưng bây giờ những giấc mơ mà chú nói đã vỡ tan rồi. Cháu không chịu nổi tiếng rên đau đớn của ba cháu hòa vào tiếng khóc vì đói sữa của em cháu. Mẹ cháu khóc cạn nước mắt rồi. Chủ nhà trọ cũng sắp sửa đuổi gia đình cháu đi, đã ba tháng nay nhà cháu không có tiền trả tiền thuê trọ. Chú ơi, ngôi nhà mà chú nói ấy ở đâu?” Cô bé lại òa khóc, tôi mặc nước mắt nó chảy xuống trên tay tôi. Tôi, tôi không biết đây có phải là sự thật không.  

“Cháu đến từ đâu?” Tôi rống lên.

“Từ trong truyện Ngôi nhà có thật của chú?”

“Ngôi nhà có thật? Tôi nói.

“Chú không nhớ thật sao?” Cô bé nói. “Chú đã viết nó vào bốn năm trước, lúc đấy cháu mới năm tuổi.”

Đúng rồi, bây giờ thì tôi nhớ ra rồi. Tôi đã viết truyện ngắn Ngôi nhà có thật vào bốn năm trước. Truyện ngắn đó tôi viết về một gia đình sống bằng nghề đánh cá trên sông La. Ngày đó, tôi đang ở Hà Tĩnh, một buổi chiều, khi tôi đang đi dạo trên bờ sông thì tôi đã bắt gặp ánh mắt vô vọng của một người đàn ông và đôi mắt ngây thơ của một cô bé khoảng bốn năm tuổi gì đó. Tôi bắt chuyện với họ và họ đã nói về cuộc sống khốn cùng, về những ngôi nhà và về ước mơ được tới trường của cô bé. Tối hôm đó, tôi đem họ vào truyện ngắn của tôi với tất cả sự yêu thương và niềm hi vọng. Tôi đưa họ vào truyện ngắn của tôi và tôi nói với họ hãy vào Huế, đó là mảnh đất có thể thoát khỏi những khốn khó của họ. Bởi Huế là thành phố của hi vọng. Linh. Đúng rồi, cô bé ngày ấy tên là Linh, tôi nhớ ra rồi, lỗi thuộc về tôi. Trong truyện đó, tôi đã đưa họ tới Huế, rồi vì cuộc sống, vì viết lách mà tôi quên mất họ. Tôi không thể biết được sự khốn cùng vẫn đeo bám họ cho tới hôm nay.

“Ba cháu tên Dũng phải không Linh?” Tôi hỏi cô bé.

“Chú nhớ ra rồi đó.” Cô bé nói. “Ngôi nhà mà chú đã vẽ lên cho gia đình cháu bây giờ ở đâu?” Cô bé nói. Lòng tôi thắt lại. Phải rồi. Trong truyện ngắn ngày đó tôi đã viết về một ngôi nhà có thật, một ngôi nhà màu trắng với hàng rào làm bằng hoa leo, ngôi nhà có những giá sách và lò sưởi, ngôi nhà có những hành lang rộng lớn và những phòng ngủ treo đầy tranh. Đúng rồi, ngày đó tôi đã viết về một ngôi nhà như thế và nói với gia đình Linh hãy luôn nghĩ tới nó khi gia đình tới Huế. Ôi, những nhân vật khổ sở của tôi. Tôi không ngờ sự thật quá trần trụi bên cạnh những ước mơ viển vông khốn nạn của tôi, của một nhà văn vô danh lắm mơ mộng hão huyền.  

Bây giờ thì tôi ôm riết lấy cô bé. Mặc cảm tội lỗi tràn về trong tôi. Tôi tưởng rằng tất cả chỉ là hư cấu, nhưng không, đó là sự thật. Tôi phải có trách nhiệm về những nhân vật của tôi khi tôi thổi vào họ những ước mơ lớn lao rồi bỏ mặc họ giữa cuộc mưu sinh khốn khó này. Linh nói với tôi về những tiếng rên đau đớn của ba nó trong đêm, tiếng khóc đói sữa của em nó và những tiếng tru tréo của mụ chủ nhà. Linh nói với tôi về việc ba nó thường nhắc tới ngôi nhà mà tôi đã vẽ lên bằng ngôn từ cách đây bốn năm. “Đó không bao giờ là ngôi nhà có thật.” Linh nói.  

Hai chúng tôi bước đi vô định trên hè phố. Huế càng về chiều trời càng lạnh, và lòng tôi càng lạnh hơn. Tôi nhìn những người công nhân với đôi mắt mệt mỏi sau giờ tan ca đang bước về những căn phòng trọ tồi tàn rồi tự hỏi trong số họ còn có ai là nhân vật của tôi không. Tôi nắm chặt lấy tay cô bé rồi lại bước đi. Chúng tôi không biết chúng tôi sẽ đi đâu. Chúng tôi đi qua dưới những ngôi nhà bằng kính, đi qua những quán ăn nghi nghút khói. Linh nói nó đói và tôi cùng nó tạt vào một quán phở bên đường. Nhìn Linh ngấu ngiến bát phở mà tôi muốn khóc, có lẽ lâu rồi cô bé đã không được ăn. “Ngon không Linh?” Tôi hỏi. “Cháu có thể ăn thêm một bát nữa không?” Linh nói.  

Linh nói với tôi rằng hãy đưa gia đình nó trở về. Nhưng tôi biết, nếu bây giờ mà trở về trên sông La thì ba Linh và em gái của nó sẽ không thể chịu đựng được tiếng rít của những cơn gió lạnh trên sông. Tôi không muốn gia đình nó lại lênh đênh trên sông nước, lại đói khổ nhìn những cái tết leo lắt lướt qua trên xóm chài hiu hắt.

Phố đã lên đèn. Đằng kìa là chợ Đông Ba. Nhìn cảnh khu chợ dưới ánh đèn vàng tôi lại càng sợ hãi. Lòng tôi hoang vắng, tôi siết chặt tay Linh mong tìm một hơi ấm nhưng tay của Linh cũng lạnh. Chúng tôi bên nhau, cùng tìm kiếm hơi ấm trong đêm.  

“Ngôi nhà đó chỉ là sự tưởng tượng của chú phải không?” Cô bé hỏi tôi.

“Tưởng tượng, đó chỉ là một sự tưởng tượng.” Tôi nói.

“Sự tưởng tượng của chú đã dồn gia đình cháu vào hoàn cảnh này đấy.” Linh nói. Tôi không nói. Tôi nhìn loài thiêu thân đang lao vào ánh đèn trên đường phố. Tôi nói với cô bé rằng đôi khi chúng ta phải biết giữ lấy những hình ảnh đến từ tưởng tượng. “Một ngày nào đó cháu sẽ phải học cách sống bằng tưởng tượng, sự tưởng tượng đôi khi nuôi dưỡng chúng ta, khiến chúng ta thoát khỏi đau buồn.” Tôi nói. “Cháu không hề biết tưởng tượng.” Linh nói.

“Lỗi của chú lớn lắm phải không?” Tôi hỏi. “Cháu không biết, cháu chỉ nghĩ rằng chỉ có chú mới chữa lành được chân của ba cháu và chỉ có chú mới có thể cho gia đình cháu một ngôi nhà, một ngôi nhà không nóng như lò than vào mùa hè và không có những cơn gió lùa vào khi trời rét mướt.” Linh nói.

Tôi không biết mình có thể làm được những điều tuyệt diệu đó hay không. Tôi chỉ biết rằng tôi có thể tạo nên được những nhân vật, nhân vật của tôi thường là những người khốn cùng trong xã hội, đôi khi, tôi đem đến cho họ một ít ánh sáng, đôi khi tôi đẩy họ vào đêm tối mịt mùng… Rồi khi, câu chuyện kết thúc, tôi không thể biết số phận của những nhân vật sẽ đi về đâu, họ hạnh phúc, ngập tràn hi vọng hay tuyệt vọng và trở nên bần cùng...

Càng về khuya mưa càng nặng hạt hơn, hai chúng tôi nép vào nhau ngồi co ro dưới một hiên nhà bằng kính. Linh hỏi tôi về sự thật và hư cấu. Tôi nói rằng sự thật thì luôn đau khổ và hư cấu đôi khi giúp chúng ta trở nên mộng mơ và sẽ tìm được những phút giây bình yên bằng cách đu mình theo những mộng tưởng đó. “Chú có thấy mình tàn nhẫn khi chú không đi hết số phận của những nhân vật mà chú tạo ra không, chú có thấy đau đớn khi câu chuyện của chú kết thúc nhưng cuộc đời của những nhân vật trong truyện của chú vẫn tồn tại và họ phải đối mặt với những rủi ro khôn lường không chú?” Linh úp mặt vào ngực tôi rồi thều thào nói. Tôi nghe như có những tảng băng khổng lồ trong lòng ngực tôi đang lớn dần lên như những con quái vật không ngừng gào rú.  

Trong đêm, chúng tôi vẫn thì thầm trò chuyện. Những người đàn bà đi ăn đêm nhìn chúng tôi thương xót. Họ lướt qua trước mặt hai chúng tôi như những linh hồn vật vờ đi trong nghĩa địa. Tôi lại nghĩ rằng trong số những người đàn bà đau thương đó có ai là nhân vật của tôi không. Tại sao tôi lại tạo ra họ và để mặc họ giữa cuộc mưu sinh đầy bất trắc này?  

“Bây giờ gia đình cháu phải làm sao?” Linh hỏi tôi. Tôi lấy tay vuốt những giọt nước mưa trên tóc cô bé. “Phải tưởng tượng, tất cả chúng ta phải bắt đầu học cách tưởng tượng, chỉ có tưởng tượng mới cho chúng ta những đôi cánh để bay lên.” Tôi nói. “Nhưng cháu không biết tưởng tượng.” Linh nói. “Nào, hãy đứng lên, cháu hãy nhìn về phía có những vệt sáng xa tít cuối trời, đó là những vệt sáng trong đêm mưa, đó là những tia hi vọng của chúng ta.  Hãy nắm lấy tay chú và nhìn về phía có những vệt sáng đó.” Tôi nói.  

Cả hai chúng tôi đứng lên và nhìn về phía có những vệt sáng yếu ớt trong màn mưa đêm. “Những vệt sáng ấy xa lắm đúng không chú?” Linh hỏi tôi. “Ừ, xa lắm.” Tôi nói. “Cháu hãy nghĩ rằng những vệt sáng đó chính là những con đường, những con đường đầy ánh sáng, cháu có thấy không?” Tôi nói. “Có, cháu bắt đầu thấy những con đường xuất hiện, và hoa nữa, chú ơi có hoa nữa…” Linh nói. “Đúng rồi, nào, tiếp tục đi, cháu hãy nghĩ tới cuối con đường màu trắng ấy có một ngôi nhà, đó là ngôi nhà mà chú đã viết trong truyện Ngôi nhà có thật vào mấy năm trước, cháu nhìn qua cửa sổ kìa, cháu hãy nhìn qua khung cửa sổ cháu sẽ thấy em cháu, em cháu đang nhoẻn miệng cười, cháu thấy không?” Tôi nói. “Có, cháu còn nhìn thấy ba cháu đang đọc sách, chú ơi, ba cháu đang đọc cuốn Niềm hi vọng. Mẹ cháu đang làm gì thế chú?” Linh nói. “Mẹ cháu đang bận rộn trong bếp, cháu hãy nhìn về phía cuối ngôi nhà đi, đấy, mẹ cháu đang rất bận rộn với những ngọn lửa trong bếp với đôi má ửng hồng và những món ăn thơm lừng, nào, hãy nhìn về phía có những vệt sáng ấy đi. Đừng quay lại, đừng bao giờ quay đầu lại, hãy nhìn về phía có những vệt sáng ấy…” Tôi nói.  

Cứ thế, hai chúng tôi đứng trong đêm mưa nhìn về phía có những vệt sáng xa xăm. Chúng tôi cứ nhìn như thế và sẽ không bao giờ quay đầu trở lại cho tới khi nào chúng tôi mọc những đôi cánh màu trắng sau lưng mình.

L.M.P
(SH318/08-15)  






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H

  • TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…

  • NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.

  • THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…

  • NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.

  • XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.

  • PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt  vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...

  • PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.

  • QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.

  • XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNGNgày trăng tròn lẻ. Tháng Trung Thu năm Đại Bảo thứ 3.Người hai lưỡi bảo là ngày Sao Thổ phạm vào Thái Âm.Người ngắn lưỡi nói Sao Chổi mọc ở phương Tây.Người dài lưỡi bảo có tinh vượn đen ăn mặt trời, ngày Nhật thực, nếu không yểm kỹ sông Nhị đang nảy vàng ròng sẽ ngừng.Động đất.

  • VIỆT HÙNGTrước đây, anh là người lừng danh, một tay "cua - rơ khét tiếng" trên xa lộ. Đã một thời anh chỉ biết chiến thắng. Người ta từng mệnh danh, anh là người sinh ra để đua xe đạp, anh không hề có đối thủ. Anh xem thường sự chiến thắng của mình, cho nó là điều hiển nhiên. Anh coi ánh hào quang của vòng nguyệt quế chỉ có tác dụng tô điểm thêm cho vẻ đẹp của mình mà thôi. Bởi, không có nó, anh vẫn là một thần tượng chẳng gì "khuất phục nổi".

  • NGUYỄN THÁNH NGÃĐêm nay trăng nhão, không biết là đêm trăng gì. Ở xa nhìn về đồi Kà Mạ vẫn một khối đen sì. Nếu có ai nhướn mắt nhìn thật kỹ sẽ thấy cái khối đen sì ấy nhô lên như một cái đầu người đôi mắt lấp láy đom đóm. Thỉnh thoảng gió hất cái đầu tóc rối bù xù bay về phía ruộng. Tiếng chim cú kêu mỗi lúc một thê lương, ớn lạnh từng đốt xương sống...

  • THÁI BÁ TÂNTháng trước, ở phường B. thị trấn Đức Giang, huyện Gia Lâm, nơi tôi về nghỉ hưu mấy năm nay, đã xẩy ra một vụ trọng án có nhiều tình tiết rất kỳ lạ, có thể nói bí ẩn không sao giải thích nổi, đến mức cuối cùng người ta quay sang cho rằng nhất định phải có yếu tố thần linh ma quỷ trong vụ này.

  • PHẠM THỊ ANH NGA                  Truyện ngắn...trái tim có những lý lẽ mà lý trí không thể nào biết được...

  • PHAN VĂN LỢIBuổi giao lưu và trao giải thưởng cho các tác giả đoạt giải trong cuộc thi viết truyện ngắn do Hội Nhà văn tổ chức đã tiến hành được gần nửa giờ. Gã nhấp nhỏm trên chiếc ghế kê phía sau cánh gà sân khấu, bồn chồn không yên. Chừng thông cảm với tâm trạng của gã, cô gái phục vụ mặc áo dài đỏ bưng tới cho gã ly nước, nhẹ nhàng nói: "Chú cứ yên tâm ngồi nghỉ cho khoẻ. Giải A bao giờ cũng trao cuối cùng, chú ạ!"

  • KHẢI NGUYÊN Pa-ri, mùa hạ năm 198...Vườn Bách thảo giữa thành phố kề sông Xen phía tả ngạn. Ông đến đây như một kẻ lánh đời, sợ nơi đông người. Thật ra, phần lớn đường phố Pa-ri trong giờ làm việc không ồn, không thừa thãi người đi nhong như ở Việt Nam. Em ông ở quê ra Hà Nội chơi đứng ngắm dòng người và xe nườm nượp qua lại cứ tự hỏi: những con người này đi đâu, về đâu mà tuôn mãi như là chẳng ai về nhà cả, như là cái "nghiệp" trời đày phải đi.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNhiều năm trôi qua tôi đã trở thành người đàn ông đứng tuổi. Có một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Nhưng mỗi lần nghĩ về nàng, một người đàn bà chỉ kịp quen trên chuyến đò từ Huế ra Phong Điền, chia tay nàng để nhiều năm sau, tôi mới được gặp lại nàng trong một hoàn cảnh khác, tôi vẫn giữ nguyên một cảm giác hết sức lạ lùng. Một ý nghĩa luôn ám ảnh tôi khá kỳ quặc rằng: Tôi đã bị nàng hiểu lầm, là một chàng lính giải phóng “hám gái, dại khờ”... Bởi vì sau vụ việc ấy, chính tôi cũng rủa thầm mình là ngu ngốc.