Nghìn nẻo đường đến với thi ca

14:36 11/12/2008
TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

Có thi sĩ đi con đường chân chất, phẳng bằng, nhẹ nhõm. Có người đi khuất khúc, chớn chở, quanh co. Có người lại đi như thiên thần, từ đất vọt lên trời, rồi mới từ trời nhuộm ánh sáng lạ trở về cõi nhân gian... Có người tạng cụ thể dân giã. Có người ưng siêu hình miên man nghĩ ngợi. Người chữ nghĩa trong như nước giếng thơi. Người chữ nghĩa trập trùng ẩn hiện... Ấy là theo tạng người, xuất phát từ những hoàn cảnh sống, môi trường văn hoá khác nhau. Không phải hơn kém nhau. Mà khác biệt nhau một cách tương đối. Bởi không bao giờ khác biệt nhau theo kiểu chống đối. Bởi các tạng, các lối nẻo đều chung một định hướng đến THƠ. Chỉ có sự chưa trưởng thành vươn tới chân lý đích thực là THƠ, các trường phái, các phê bình gia mới cực đoan, tụng lối này, bác kiểu kia. Thời gian không phải một hai năm, mà lịch sử phát triển THI CA hàng thiên niên kỷ đã chứng minh: tất cả mọi nẻo đường, từ đâu và vòng vo thế nào không biết, cứ đến được THƠ thì những đường đi ấy đều có lý, vì đã hằn rõ trên đường dấu chân mải miết của các nhà thơ.

Bên cạnh lối tạng cảm thụ, yêu thích đương nhiên bao giờ cũng có phần thiên lệch của từng thi sĩ, cần trữ nạp trong từng nhà thơ sự hiểu biết dân chủ một cách sáng suốt của người đọc thơ. Giống như các nhóm thi sĩ gần nhau, người đọc cũng có những nhóm hợp thể tạng nhau. Muôn đời không qui đồng được. Thay vì đả phá, công kích, người đọc có kiến văn thi ca, có thể quan chiêm các lối thơ khác nhau, mới nhìn qua có vẻ như những lối thơ ấy chống nhau, bài nhau. Đang thích sự chĩnh chện, đài các quý phái của thơ Bà Huyện Thanh Quan.
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai vỗ cánh chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn...

Bỗng như giật thót mình nghe nữ sĩ phá cách số một của thi ca trung đại Việt Nam- Hồ Xuân Hương- riễu cợt các vị sư phá giới:
Thuyền từ những muốn về tây trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo!
Vung gươm tiếng Việt như thế chẳng phải đại tài thi sĩ thì đố ai dám. Quen quen với cái thẩm mĩ ngang ngược ấy (mà qui cách văn chương của Khổng sân Trình phê phán) người đọc thuở ấy chắc hẳn thầm khoái với những:
Một trái trăng thu chín mõm mòm
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom
....
Còn chúng ta giờ đây thì kính phục đến cúi rạp mình trước nhà nghệ sĩ cự phách của tiếng Việt:
...Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
...Con đường vô ngạn tối om om

Dẫn chứng trên thuộc về thơ Việt thế kỷ 19 trở về trước. Sang thế kỷ 20, thêm ảnh hưởng của Âu Mỹ, mặc dù chưa rộ mạnh, giống cây thơ Việt đã đa hệ đa sắc hơn. Tình hình thơ hiện đại thế giới nhiều biến động, không chỉ thuần tuý trữ tình theo lối tỏ bày nội tâm, theo kiểu nhà thơ lớn nước Pháp Muset “thiên tài chính là đánh mạnh vào quả tim người đọc”. Cũng vẫn tỏ bày nội tâm nhưng theo nhiều lối khác, ngúc ngoắc, phức hợp hơn. Đã báo hiệu từ cuối thế kỷ 19 sang thế kỷ 20, đặc biệt từ nửa đầu tới giữa thế kỷ, tại Pháp, Ý, Đức, Mỹ đã ra đời thơ hiện đại mà chủ yếu là thơ tượng trưng, thơ siêu thực. Quét những góc chiếu, hướng nhìn mới tạo nên những cải tiến ngôn ngữ- phương thức biểu hiện chủ đạo của thơ- đã gây nên nhiều va đậåp khác nhau. Ở Việt ta bên cạnh lối lãng mạn dễ nhận biết của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư... đã có những người hướng theo nẻo siêu thực tượng trưng như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, sau đó là Đinh Hùng rất đậm tượng trưng. Vật liệu của thơ đã thay đổi đáng kể, sự thưởng thức, thám sát thơ cũng đòi hỏi hình thành, kéo theo những “thói quen” mới. Các thi sĩ và người đọc đều có những phản ứng khác nhau là tất nhiên. Vấn đề ở đây, vượt lên sự thích, sự hợp tạng là ý hướng khám phá và thụ hưởng những khám phá mới đầy hấp dẫn của nghệ thuật thơ, những vận động không tránh khỏi của thơ trữ tình thời hiện đại.

Rồi khi sáng tác, mời các thi sĩ lại tự nhiên trở về với lối tạng của mình. Ai hiện đại cứ hiện đại, ai truyền thống cứ truyền thống. Hoặc kết hợp hài hoà giữa hai lối v.v... Một quang cảnh dân chủ trong viết, trong đọc, trong thẩm định chính là quang cảnh thật đẹp của một nền thơ Việt đa sắc đa hệ chúng ta mong đạt tới.
T.T

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.

  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)