Bình Trị Thiên khói lửa - Ảnh: TL
Về những vấn đề này đã có nhiều bài viết. Ở đây, chỉ xin nêu một vài suy nghĩ về những bước tiến của việc nâng cao chất lượng nghệ thuật trong thơ Bình Trị Thiên. Những năm gần đây thơ Bình Trị Thiên được in ra khá nhiều ở các nhà xuất bản , các báo trung ương và địa phương. Trong số những bài thơ được in có không ít bài dở. Chính những bài dở này đã tạo cho nhiều người có cảm giác chất lượng thơ ngày một giảm sút. Và có phải vì thế mà có những ý kiến cho rằng thơ Bình Trị Thiên thời gian qua không có sự nâng cao nghệ thuật đáng kể nào. Ý kiến trên chưa hẳn đã đúng. Trước Nguyễn Khoa Điềm trong thơ Việt Nam đã có biết bao nhà thơ lấy cảm hứng từ đề tài đất nước. Nhưng đất nước trong Mặt đường khát vọng vẫn rung động chúng ta sâu sắc. Bởi vì cái mới trong “Đất nước” của anh không chỉ là hệ thống hình ảnh, cảm xúc , sự kiện mà còn chính là ở quan niệm Đất nước trong thơ anh vừa có cái diệu vợi mênh mông của “Bốn nghìn lớp người giống nhau lứa tuổi” làm nên, vừa lại hết sức gần gũi thân thiết. “Là nơi em tắm”, “Là nơi anh đến trường”, “Hài hòa nồng thắm” trong mỗi con người. Với những quan niệm mới mẻ đó, “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm có đủ lý do để tồn tại lâu bền trong lòng người đọc. Trên xu hướng đến những quan niệm thẩm mỹ mới về con người và cuộc đời, thơ Bình Trị Thiên đã có những biến đổi đáng kể trong việc khám phá và chiếm lĩnh thực tại. Một số bài thơ “Những đồng chí trung kiên” của Thanh Hải, “Trên đèo Mụ Dạ” của Xuân Hoàng, “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ đã thể hiện được điều đó. Trong những năm chống Mỹ cái đẹp thơ ngợi ca là cái đẹp của lòng dũng cảm, của ý chí tuyệt đối trung thành và tinh thần sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Con người lúc này dẫu kề bên cái chết vẫn lạc quan ung dung: Hôm sớm đi trên bom nổ chậm Tưởng chừng như bước giữa đường quê (Xuân Hoàng - Trên đèo Mụ Dạ) Đó là hai câu thơ rất tiêu biểu cho quan niệm thẩm mỹ về con người trong thơ chống Mỹ. Sau đại thắng, với một khoảng cách không gian và thời gian rộng rãi hơn đã cho phép nhà thơ sống lại những khía cạnh khác của con người trong cuộc chiến và thể hiện nó một cách đầy đặn hơn. Trong trường ca Những người ở lại Thanh Hải lý giải sự trở thành “Đồng chí trung kiên” của “Những người ở lại” không chỉ là xốc tới, mà có sự đào thải, có vật lộn, đắn đo khi anh nhận ra rằng: Kháng chiến gian lao, thắng lợi cũng gian lao … Chiều ở lại không phải chiều vĩnh cửu Nhưng cuộc đời từ đó cứ nhân lên Là buổi chiều anh gục xuống Hay đứng lên trong thử thách Sau chiến tranh , trở lại đề tài chống Mỹ, thơ Thanh Hải có những dấu hiệu nhìn sâu hơn vào đời sống hiện thực. Tiếc rằng bệnh tật hiểm nghèo đã cướp mất anh quá sớm so với những dự định sáng tác lớn lao của anh về mảnh đất này. Cũng tiếc là vì bề bộn với cuộc sống mới nên thơ Bình Trị Thiên ít có dịp trở lại đề tài này, một đề tài lẽ ra phải là nỗi niềm đau đáu của những người đã sống đã làm ra một thời kỳ vẻ vang của lịch sử. Viết về cuộc sống mới hôm nay thơ Bình Trị Thiên không tránh khỏi quy luật khắt khe của cuộc đời là nhiều bài rơi rụng. Nhưng trên cái nền chung của những gì còn lại thơ cũng đã có những chuyển biến đáng ghi nhận. Thơ ít chạy theo những cái mới lạ, tân kỳ mà trở về với những đề tài “đời thường”. Thơ nói đến nét vẻ vụng về trên cát của con trẻ, nói đến những ước mong trồng cây đợi ngày hái quả của các bà mẹ. Thơ nói về bông hoa, ngọn cỏ, một cành lộc biếc, một tiếng chim trên đồng, một hạt muối bể. Thơ nói tiếp về những cái hôm qua đã nói và chưa kịp nói nữa. Trở về với đề tài đời thường thơ có khả năng đi sâu vào chỗ tinh vi của nhân cách con người. Trở về đề tài “đời thường” cũng chứng tỏ khả năng tiếp nhận một thực tại mới của nhà thơ, chứng tỏ trình độ tư duy của nhà thơ đủ khả năng khám phá và chiếm lĩnh một hiện thực mới. Thơ đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống gắn bó với mỗi cá nhân, mỗi số phận trong xã hội. Dĩ nhiên do đó thơ sẽ đi đến những đòi hỏi về đạo đức, về nhân cách ở mỗi con người. Và cũng vì thế cảm hứng thơ sẽ không thiên về ngợi ca, là cảm hứng phân tích nhân cách trên nhiều cấp độ. Nhiều bài thơ gần đây của Thanh Hải, Xuân Hoàng, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật v.v… đã chứng minh điều ấy . Trong Hoa quỳnh khi miêu tả cái “phút giây chợt quên” dễ dàng tiềm ẩn ở mỗi con người. Lâm Thị Mỹ Dạ nhấn mạnh sự đòi hỏi ở mỗi nhân cách là phải sống sao để đừng trôi đi những phút giây quý giá: Ôi phút hoa hiến dâng Hồn tôi không kịp hái Thời gian đâu dừng chân Một khoảng tôi để quên Có nghĩa là đã mất Cũng khắc khoải về thời gian, trong Mẹ và quả Nguyễn Khoa Điềm lại nhấn mạnh khía cạnh công dân của nhân cách con người: phải dành thời gian sao cho kịp thành quả ngọt dâng cho đời, cho những bà mẹ đã sinh thành những thế hệ như anh: Và chúng tôi một thứ quả trên đời Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái Tôi vẫn sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn là thứ quả non xanh Biết bao là ân tình và trách nhiệm đằng sau cái “sợ” này. Thơ anh đã nói được những băn khoăn sâu xa của cả một thế hệ, một thời đại, mà câu thơ vẫn rất dung dị, rất đời thường như mẹ và quả trên cành. Hoàng Vũ Thuật trong Cây dừa trên mũi đất cửa Tùng lý giải sự tồn tại của mỗi con người hôm nay là sự tồn tại có sức chứa của biết bao người cùng thế hệ đã ngã xuống như bao bóng dừa chìm trong đất đá. Hình tượng cây dừa duy nhất còn lại trên mũi đất Cửa Tùng vừa là chứng nghiệm vừa là đòi hỏi về nhân cách vì thế lay động người đọc thật dữ dội: Những hàng cây cùng thời đã ra đi Chỉ một mình cây dừa dừng lại đó Bao bóng mát chìm trong đất đá Những hàng cây cùng thời đã ra đi Những tìm tòi nói trên tuy chưa nhiều nhưng rất đáng trân trọng vì nó đánh dấu sự tiến bộ nghệ thuật, đánh dấu sự phát triển của tư duy nghệ thuật trong quá trình khám phá và chiếm lĩnh thực tại. Nếu đặt trong sự tiến bộ chung của thơ ca Việt Nam thì thơ Bình Trị Thiên vẫn nhịp bước với nền thơ chung trên cả ở trình độ tư duy và phương thức tư duy. Điều đáng nói nữa là thơ Bình Trị Thiên gần đây đang có những biến đổi về hình thức trong thơ, để tìm cho mình cách nói phù hợp với thời đại mới. Những hình ảnh tượng trưng, những cách nói khoa trương đầy rẫy trong thơ giai đoạn trước đã dần dần nhường chỗ cho những hình ảnh, những cách nói cụ thể gần với thực tại , và vì thế có sức thuyết phục. Tính chất “văn hoa” trong thơ ngày một ít đi. Thơ có xu hướng trần trụi, gần với văn xuôi hơn nhưng sức nặng của nó không vì thế mà giảm sút, trái lại có hiệu quả hơn vì nó bình dị như đời thường vốn có. Chẳng hạn: Chúng ta không cần sự lặng im Không có khuôn mặt Giấu mặt mình sau người khác Chúng ta không cần sự hô hào Không gốc rễ với mồ hôi nước mắt (Nguyễn Khoa Điềm - Nói với bạn bè trong cuộc họp) Với cách nói không mấy trang sức này thơ đến với người đọc như là tri âm đến với tri âm, tính chất khách sáo vòng vèo trong thơ cũng vì thế mà ít đi. Những biến đổi như thế trong thơ Bình Trị Thiên những năm gần đây là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên thơ Bình Trị Thiên trong giai đoạn vừa qua cũng còn nhiều điều làm chúng ta chưa thỏa mãn. Còn nhiều bài thơ mà sự sáng tạo của người nghệ sĩ không có bao lăm với những ý tứ mòn cũ. Cuộc sống được miêu tả trong thơ mới chỉ là những cái bóng mờ nhạt. Cắt nghĩa điều này có người cho là nhà thơ thiếu thực tế. Lý do có lẽ không chỉ đơn giản như vậy. Bài thơ nào mà chẳng ít nhiều mang một dáng dấp, một hơi thở của cuộc sống. Cái chính là nhà thơ chưa sáng tạo được quan niệm thẩm mỹ mới. Cho nên dù thay đổi đối tượng miêu tả và thời điểm trữ tình mà thơ vẫn chỉ lặp lại những cảm xúc sáo mòn, những ý tưởng cũ càng. Điều đó cũng giải thích vì sao, chẳng hạn, nhiều bài viết về những nhà máy khói tỏa sau ngày giải phóng mà ta vẫn có cảm tưởng như đọc một bài thơ viết về những “nhà máy rộn ràng khói trắng” đâu đó ở miền Bắc trong những năm đầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Gần đây như để đền bù cho những sự sáo mòn đó, chị Lê Thị Mây đã tả khói nhà máy thật độc đáo. Cái táo bạo của sự so sánh đã làm chúng ta ngạc nhiên đến sững sờ: Bên này sông nhà máy xi măng cuộn khói Như khói thuốc chàng trai Sau ca ba vẫn dư tràn sức lực Trong một tình yêu hết mình (Lê Thị Mây - Tả chân) Viết về sức trẻ , về khí thế lao động của nhà máy như thế có lẽ không cần phải nói gì thêm nữa. Có điều rút ra là nếu không có một quan niệm mới về nhịp điệu của cuộc sống hiện đại thì chị Lê Thị Mây không viết được những câu như thế. Điều này cũng nói lên rằng nhà thơ phải sáng tạo ra quan niệm thẩm mỹ mới, chứ không chỉ đơn giản miêu tả lại thực tại mới. Chỉ miêu tả lại thực tại mới, nhiều lắm thơ chỉ vẽ được cái khung thôi mà người đọc cần bức tranh hơn chứ không phải là cái khung. Ở giai đoạn trước thơ gắn với việc ngợi ca những con người xả thân hy sinh vì đất nước, sống vì đất nước nên âm điệu thơ nói chung gắn với các khúc ca. Các nhà thơ đã bắt đúng cái giọng chính yếu đó của thời đại mà “cất cao tiếng hát, ca ngợi trăm lần tổ quốc chúng ta”. Sau 1975 thơ đứng trước một đối thể mới , nhà thơ phải chọn được giọng điệu phù hợp, chứ không phải chỉ là đặt lời mới cho các khúc hát cũ. Tiếc rằng thơ Bình Trị Thiên vẫn còn bài chưa nắm bắt được giọng điệu của một thực tại mới. Vẫn còn nhiều nhà thơ say sưa với những lời ru quá dịu ngọt. Do vậy mà thơ ít thuyết phục, ít đến được với người đọc. Trong một buổi tọa đàm nhân cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ 1981-1982, Hà Minh Đức cho rằng: “Trong lúc cuộc sống trăn trở nhiều, thơ chưa kịp đổi mới mà vẫn còn bay bổng thi vị hóa một cách dễ dãi, vì thế công chúng không thích đọc thơ” (Văn nghệ số 38-1982). Đó cũng là ý kiến đúng cho nhiều bài thơ Bình Trị Thiên. Rõ ràng trước một thực tại mới thơ không nên chỉ là hát mục ca hoặc khúc ca điền viên về “đụn rơm vàng đầu ngõ, đàn gà ăn trước sân”, “khoai ôm đầy ngực thơm”, về những “nhà mới thêm tầng”, “gió thêm ô cửa thêm gần đấy đây”, hay những đàn gia súc béo tròn , những khoang thuyền đầy cá… mà thơ cần phải trăn trở nhiều hơn nữa. Có như vậy, thơ mới làm tròn chức năng “nhân học” của mình. Trước hiện thực, nhà thơ không chỉ nhận thức cho mình mà còn nhận thức cho đời nữa. Nhà thơ phải vượt qua “hai lần khó” đó như đồng chí Tố Hữu đã có lần chỉ ra. Nhà thơ phải nhập cuộc hơn nữa, phải sống hết mình, chứ không phải nhởn nhơ bên cạnh người lao động: Tiếng còi tầm nhà máy dắt vào ca Tôi gặp em bên hầm đá nóng Tôi gặp em dưới trời bụi trắng Em lặng im mà mặt đất chuyển rung. Những câu thơ như thế thật khó tìm được tri âm. Và cả những cách nói, cách nghĩ dễ dãi như thế này cũng ít được người đọc chấp nhận : Em là biển nên không hề nông cạn Hay: Hạt nào chẳng mộng chồi tơ v.v… Những cách viết như vậy ít lượng thông tin đã đành mà cũng không mấy gợi cảm. Tiếc rằng những câu như thế lại không phải ít trong thơ những năm gần đây. Cuối cùng cũng cần nói thêm về cách diễn đạt trong thơ, có cách diễn đạt được dùng đi, dùng lại quá nhiều ở nhiều bài thơ, chẳng hạn dạng kiểu “Tôi đi”. “Tôi đi giữa mùa thơm của lúa”, “Anh cùng tôi ra phía bờ sông”, “Tôi lại về đất Huế đã sinh tôi”, “Tháng tư, tôi trở lại thành phố Lê Hồng Phong”, “Ta lại về mảnh đất quê ta”, “Em trở lại nơi xưa”, “Tôi tìm lên - Khúc sông xưa đã sinh thành câu hát” v.v… ở đây không chỉ đơn thuần là cũ mòn trong diễn đạt, mà còn là sự cũ mòn trong cảm xúc. Với những bài thơ bắt đầu bằng những câu như trên thường bao giờ cảm xúc cũng theo một mô típ giống nhau là “Tôi đi (hoặc em về, Anh đến)” “Bắt gặp - cảm xúc, suy nghĩ”. Bất cứ một cách diễn đạt nào, cảm xúc nào cũng có những ưu thế và hạn chế của nó. Quá lạm dụng một kiểu nào cũng dễ làm cho thơ trở nên sáo mòn và tạo ra cảm giác giống nhau ở nhiều bài. Đó là chưa kể đọc những câu thơ trên ta có cảm tưởng như bắt gặp lại một câu thơ cũ nào đó “Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa” hoặc “Anh cùng em sang bên kia cầu” v.v… Về thơ Bình Trị Thiên có lẽ còn nhiều điều đáng nói, đáng bàn nữa, cả những điều hay lẫn những điều chưa thật hoàn chỉnh. Trong nhiều điều đáng nói đó, chúng tôi mạnh dạn nêu lên một vài điều, dẫu ít ỏi nhưng với ước mong thiết tha là sao cho thơ ở mảnh đất miền Trung dữ dội này có thể bù đắp những gì mà thiên nhiên đã quá khắt khe với con người. Chúng ta cũng hy vọng rằng với những gì đã có thơ Bình Trị Thiên sẽ ngày càng khẳng định mình, xứng đáng với một vùng đất đã sinh ra nó, xứng đáng với một vùng văn hoá của cả nước. Huế 4-1984 L.T.D. (9/10-84) |
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.