Bình Trị Thiên khói lửa - Ảnh: TL
Về những vấn đề này đã có nhiều bài viết. Ở đây, chỉ xin nêu một vài suy nghĩ về những bước tiến của việc nâng cao chất lượng nghệ thuật trong thơ Bình Trị Thiên. Những năm gần đây thơ Bình Trị Thiên được in ra khá nhiều ở các nhà xuất bản , các báo trung ương và địa phương. Trong số những bài thơ được in có không ít bài dở. Chính những bài dở này đã tạo cho nhiều người có cảm giác chất lượng thơ ngày một giảm sút. Và có phải vì thế mà có những ý kiến cho rằng thơ Bình Trị Thiên thời gian qua không có sự nâng cao nghệ thuật đáng kể nào. Ý kiến trên chưa hẳn đã đúng. Trước Nguyễn Khoa Điềm trong thơ Việt Nam đã có biết bao nhà thơ lấy cảm hứng từ đề tài đất nước. Nhưng đất nước trong Mặt đường khát vọng vẫn rung động chúng ta sâu sắc. Bởi vì cái mới trong “Đất nước” của anh không chỉ là hệ thống hình ảnh, cảm xúc , sự kiện mà còn chính là ở quan niệm Đất nước trong thơ anh vừa có cái diệu vợi mênh mông của “Bốn nghìn lớp người giống nhau lứa tuổi” làm nên, vừa lại hết sức gần gũi thân thiết. “Là nơi em tắm”, “Là nơi anh đến trường”, “Hài hòa nồng thắm” trong mỗi con người. Với những quan niệm mới mẻ đó, “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm có đủ lý do để tồn tại lâu bền trong lòng người đọc. Trên xu hướng đến những quan niệm thẩm mỹ mới về con người và cuộc đời, thơ Bình Trị Thiên đã có những biến đổi đáng kể trong việc khám phá và chiếm lĩnh thực tại. Một số bài thơ “Những đồng chí trung kiên” của Thanh Hải, “Trên đèo Mụ Dạ” của Xuân Hoàng, “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ đã thể hiện được điều đó. Trong những năm chống Mỹ cái đẹp thơ ngợi ca là cái đẹp của lòng dũng cảm, của ý chí tuyệt đối trung thành và tinh thần sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Con người lúc này dẫu kề bên cái chết vẫn lạc quan ung dung: Hôm sớm đi trên bom nổ chậm Tưởng chừng như bước giữa đường quê (Xuân Hoàng - Trên đèo Mụ Dạ) Đó là hai câu thơ rất tiêu biểu cho quan niệm thẩm mỹ về con người trong thơ chống Mỹ. Sau đại thắng, với một khoảng cách không gian và thời gian rộng rãi hơn đã cho phép nhà thơ sống lại những khía cạnh khác của con người trong cuộc chiến và thể hiện nó một cách đầy đặn hơn. Trong trường ca Những người ở lại Thanh Hải lý giải sự trở thành “Đồng chí trung kiên” của “Những người ở lại” không chỉ là xốc tới, mà có sự đào thải, có vật lộn, đắn đo khi anh nhận ra rằng: Kháng chiến gian lao, thắng lợi cũng gian lao … Chiều ở lại không phải chiều vĩnh cửu Nhưng cuộc đời từ đó cứ nhân lên Là buổi chiều anh gục xuống Hay đứng lên trong thử thách Sau chiến tranh , trở lại đề tài chống Mỹ, thơ Thanh Hải có những dấu hiệu nhìn sâu hơn vào đời sống hiện thực. Tiếc rằng bệnh tật hiểm nghèo đã cướp mất anh quá sớm so với những dự định sáng tác lớn lao của anh về mảnh đất này. Cũng tiếc là vì bề bộn với cuộc sống mới nên thơ Bình Trị Thiên ít có dịp trở lại đề tài này, một đề tài lẽ ra phải là nỗi niềm đau đáu của những người đã sống đã làm ra một thời kỳ vẻ vang của lịch sử. Viết về cuộc sống mới hôm nay thơ Bình Trị Thiên không tránh khỏi quy luật khắt khe của cuộc đời là nhiều bài rơi rụng. Nhưng trên cái nền chung của những gì còn lại thơ cũng đã có những chuyển biến đáng ghi nhận. Thơ ít chạy theo những cái mới lạ, tân kỳ mà trở về với những đề tài “đời thường”. Thơ nói đến nét vẻ vụng về trên cát của con trẻ, nói đến những ước mong trồng cây đợi ngày hái quả của các bà mẹ. Thơ nói về bông hoa, ngọn cỏ, một cành lộc biếc, một tiếng chim trên đồng, một hạt muối bể. Thơ nói tiếp về những cái hôm qua đã nói và chưa kịp nói nữa. Trở về với đề tài đời thường thơ có khả năng đi sâu vào chỗ tinh vi của nhân cách con người. Trở về đề tài “đời thường” cũng chứng tỏ khả năng tiếp nhận một thực tại mới của nhà thơ, chứng tỏ trình độ tư duy của nhà thơ đủ khả năng khám phá và chiếm lĩnh một hiện thực mới. Thơ đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống gắn bó với mỗi cá nhân, mỗi số phận trong xã hội. Dĩ nhiên do đó thơ sẽ đi đến những đòi hỏi về đạo đức, về nhân cách ở mỗi con người. Và cũng vì thế cảm hứng thơ sẽ không thiên về ngợi ca, là cảm hứng phân tích nhân cách trên nhiều cấp độ. Nhiều bài thơ gần đây của Thanh Hải, Xuân Hoàng, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật v.v… đã chứng minh điều ấy . Trong Hoa quỳnh khi miêu tả cái “phút giây chợt quên” dễ dàng tiềm ẩn ở mỗi con người. Lâm Thị Mỹ Dạ nhấn mạnh sự đòi hỏi ở mỗi nhân cách là phải sống sao để đừng trôi đi những phút giây quý giá: Ôi phút hoa hiến dâng Hồn tôi không kịp hái Thời gian đâu dừng chân Một khoảng tôi để quên Có nghĩa là đã mất Cũng khắc khoải về thời gian, trong Mẹ và quả Nguyễn Khoa Điềm lại nhấn mạnh khía cạnh công dân của nhân cách con người: phải dành thời gian sao cho kịp thành quả ngọt dâng cho đời, cho những bà mẹ đã sinh thành những thế hệ như anh: Và chúng tôi một thứ quả trên đời Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái Tôi vẫn sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn là thứ quả non xanh Biết bao là ân tình và trách nhiệm đằng sau cái “sợ” này. Thơ anh đã nói được những băn khoăn sâu xa của cả một thế hệ, một thời đại, mà câu thơ vẫn rất dung dị, rất đời thường như mẹ và quả trên cành. Hoàng Vũ Thuật trong Cây dừa trên mũi đất cửa Tùng lý giải sự tồn tại của mỗi con người hôm nay là sự tồn tại có sức chứa của biết bao người cùng thế hệ đã ngã xuống như bao bóng dừa chìm trong đất đá. Hình tượng cây dừa duy nhất còn lại trên mũi đất Cửa Tùng vừa là chứng nghiệm vừa là đòi hỏi về nhân cách vì thế lay động người đọc thật dữ dội: Những hàng cây cùng thời đã ra đi Chỉ một mình cây dừa dừng lại đó Bao bóng mát chìm trong đất đá Những hàng cây cùng thời đã ra đi Những tìm tòi nói trên tuy chưa nhiều nhưng rất đáng trân trọng vì nó đánh dấu sự tiến bộ nghệ thuật, đánh dấu sự phát triển của tư duy nghệ thuật trong quá trình khám phá và chiếm lĩnh thực tại. Nếu đặt trong sự tiến bộ chung của thơ ca Việt Nam thì thơ Bình Trị Thiên vẫn nhịp bước với nền thơ chung trên cả ở trình độ tư duy và phương thức tư duy. Điều đáng nói nữa là thơ Bình Trị Thiên gần đây đang có những biến đổi về hình thức trong thơ, để tìm cho mình cách nói phù hợp với thời đại mới. Những hình ảnh tượng trưng, những cách nói khoa trương đầy rẫy trong thơ giai đoạn trước đã dần dần nhường chỗ cho những hình ảnh, những cách nói cụ thể gần với thực tại , và vì thế có sức thuyết phục. Tính chất “văn hoa” trong thơ ngày một ít đi. Thơ có xu hướng trần trụi, gần với văn xuôi hơn nhưng sức nặng của nó không vì thế mà giảm sút, trái lại có hiệu quả hơn vì nó bình dị như đời thường vốn có. Chẳng hạn: Chúng ta không cần sự lặng im Không có khuôn mặt Giấu mặt mình sau người khác Chúng ta không cần sự hô hào Không gốc rễ với mồ hôi nước mắt (Nguyễn Khoa Điềm - Nói với bạn bè trong cuộc họp) Với cách nói không mấy trang sức này thơ đến với người đọc như là tri âm đến với tri âm, tính chất khách sáo vòng vèo trong thơ cũng vì thế mà ít đi. Những biến đổi như thế trong thơ Bình Trị Thiên những năm gần đây là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên thơ Bình Trị Thiên trong giai đoạn vừa qua cũng còn nhiều điều làm chúng ta chưa thỏa mãn. Còn nhiều bài thơ mà sự sáng tạo của người nghệ sĩ không có bao lăm với những ý tứ mòn cũ. Cuộc sống được miêu tả trong thơ mới chỉ là những cái bóng mờ nhạt. Cắt nghĩa điều này có người cho là nhà thơ thiếu thực tế. Lý do có lẽ không chỉ đơn giản như vậy. Bài thơ nào mà chẳng ít nhiều mang một dáng dấp, một hơi thở của cuộc sống. Cái chính là nhà thơ chưa sáng tạo được quan niệm thẩm mỹ mới. Cho nên dù thay đổi đối tượng miêu tả và thời điểm trữ tình mà thơ vẫn chỉ lặp lại những cảm xúc sáo mòn, những ý tưởng cũ càng. Điều đó cũng giải thích vì sao, chẳng hạn, nhiều bài viết về những nhà máy khói tỏa sau ngày giải phóng mà ta vẫn có cảm tưởng như đọc một bài thơ viết về những “nhà máy rộn ràng khói trắng” đâu đó ở miền Bắc trong những năm đầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Gần đây như để đền bù cho những sự sáo mòn đó, chị Lê Thị Mây đã tả khói nhà máy thật độc đáo. Cái táo bạo của sự so sánh đã làm chúng ta ngạc nhiên đến sững sờ: Bên này sông nhà máy xi măng cuộn khói Như khói thuốc chàng trai Sau ca ba vẫn dư tràn sức lực Trong một tình yêu hết mình (Lê Thị Mây - Tả chân) Viết về sức trẻ , về khí thế lao động của nhà máy như thế có lẽ không cần phải nói gì thêm nữa. Có điều rút ra là nếu không có một quan niệm mới về nhịp điệu của cuộc sống hiện đại thì chị Lê Thị Mây không viết được những câu như thế. Điều này cũng nói lên rằng nhà thơ phải sáng tạo ra quan niệm thẩm mỹ mới, chứ không chỉ đơn giản miêu tả lại thực tại mới. Chỉ miêu tả lại thực tại mới, nhiều lắm thơ chỉ vẽ được cái khung thôi mà người đọc cần bức tranh hơn chứ không phải là cái khung. Ở giai đoạn trước thơ gắn với việc ngợi ca những con người xả thân hy sinh vì đất nước, sống vì đất nước nên âm điệu thơ nói chung gắn với các khúc ca. Các nhà thơ đã bắt đúng cái giọng chính yếu đó của thời đại mà “cất cao tiếng hát, ca ngợi trăm lần tổ quốc chúng ta”. Sau 1975 thơ đứng trước một đối thể mới , nhà thơ phải chọn được giọng điệu phù hợp, chứ không phải chỉ là đặt lời mới cho các khúc hát cũ. Tiếc rằng thơ Bình Trị Thiên vẫn còn bài chưa nắm bắt được giọng điệu của một thực tại mới. Vẫn còn nhiều nhà thơ say sưa với những lời ru quá dịu ngọt. Do vậy mà thơ ít thuyết phục, ít đến được với người đọc. Trong một buổi tọa đàm nhân cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ 1981-1982, Hà Minh Đức cho rằng: “Trong lúc cuộc sống trăn trở nhiều, thơ chưa kịp đổi mới mà vẫn còn bay bổng thi vị hóa một cách dễ dãi, vì thế công chúng không thích đọc thơ” (Văn nghệ số 38-1982). Đó cũng là ý kiến đúng cho nhiều bài thơ Bình Trị Thiên. Rõ ràng trước một thực tại mới thơ không nên chỉ là hát mục ca hoặc khúc ca điền viên về “đụn rơm vàng đầu ngõ, đàn gà ăn trước sân”, “khoai ôm đầy ngực thơm”, về những “nhà mới thêm tầng”, “gió thêm ô cửa thêm gần đấy đây”, hay những đàn gia súc béo tròn , những khoang thuyền đầy cá… mà thơ cần phải trăn trở nhiều hơn nữa. Có như vậy, thơ mới làm tròn chức năng “nhân học” của mình. Trước hiện thực, nhà thơ không chỉ nhận thức cho mình mà còn nhận thức cho đời nữa. Nhà thơ phải vượt qua “hai lần khó” đó như đồng chí Tố Hữu đã có lần chỉ ra. Nhà thơ phải nhập cuộc hơn nữa, phải sống hết mình, chứ không phải nhởn nhơ bên cạnh người lao động: Tiếng còi tầm nhà máy dắt vào ca Tôi gặp em bên hầm đá nóng Tôi gặp em dưới trời bụi trắng Em lặng im mà mặt đất chuyển rung. Những câu thơ như thế thật khó tìm được tri âm. Và cả những cách nói, cách nghĩ dễ dãi như thế này cũng ít được người đọc chấp nhận : Em là biển nên không hề nông cạn Hay: Hạt nào chẳng mộng chồi tơ v.v… Những cách viết như vậy ít lượng thông tin đã đành mà cũng không mấy gợi cảm. Tiếc rằng những câu như thế lại không phải ít trong thơ những năm gần đây. Cuối cùng cũng cần nói thêm về cách diễn đạt trong thơ, có cách diễn đạt được dùng đi, dùng lại quá nhiều ở nhiều bài thơ, chẳng hạn dạng kiểu “Tôi đi”. “Tôi đi giữa mùa thơm của lúa”, “Anh cùng tôi ra phía bờ sông”, “Tôi lại về đất Huế đã sinh tôi”, “Tháng tư, tôi trở lại thành phố Lê Hồng Phong”, “Ta lại về mảnh đất quê ta”, “Em trở lại nơi xưa”, “Tôi tìm lên - Khúc sông xưa đã sinh thành câu hát” v.v… ở đây không chỉ đơn thuần là cũ mòn trong diễn đạt, mà còn là sự cũ mòn trong cảm xúc. Với những bài thơ bắt đầu bằng những câu như trên thường bao giờ cảm xúc cũng theo một mô típ giống nhau là “Tôi đi (hoặc em về, Anh đến)” “Bắt gặp - cảm xúc, suy nghĩ”. Bất cứ một cách diễn đạt nào, cảm xúc nào cũng có những ưu thế và hạn chế của nó. Quá lạm dụng một kiểu nào cũng dễ làm cho thơ trở nên sáo mòn và tạo ra cảm giác giống nhau ở nhiều bài. Đó là chưa kể đọc những câu thơ trên ta có cảm tưởng như bắt gặp lại một câu thơ cũ nào đó “Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa” hoặc “Anh cùng em sang bên kia cầu” v.v… Về thơ Bình Trị Thiên có lẽ còn nhiều điều đáng nói, đáng bàn nữa, cả những điều hay lẫn những điều chưa thật hoàn chỉnh. Trong nhiều điều đáng nói đó, chúng tôi mạnh dạn nêu lên một vài điều, dẫu ít ỏi nhưng với ước mong thiết tha là sao cho thơ ở mảnh đất miền Trung dữ dội này có thể bù đắp những gì mà thiên nhiên đã quá khắt khe với con người. Chúng ta cũng hy vọng rằng với những gì đã có thơ Bình Trị Thiên sẽ ngày càng khẳng định mình, xứng đáng với một vùng đất đã sinh ra nó, xứng đáng với một vùng văn hoá của cả nước. Huế 4-1984 L.T.D. (9/10-84) |
Bàn luận về những vấn đề văn học mới, phạm trù văn học mới, tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị và sự đóng góp của văn học hợp pháp, văn học cách mạng trong nửa đầu thế kỉ. Với cái nhìn bao quát và biện chứng theo dòng thời gian, chúng ta nhận rõ công lao góp phần mở đầu hiện đại hoá và phát triển văn học theo qui luật tiến hoá của lịch sử Việt của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Sóng đôi (bài tỉ, sắp hàng ngang nhau) là phép tu từ cổ xưa trong đó các bộ phận giống nhau của câu được lặp lại trong câu hay đoạn văn, thơ, làm cho cấu trúc lời văn được chỉnh tề, rõ rệt, nhất quán, đồng thời do sự lặp lại mà tạo thành nhịp điệu mạnh mẽ, như thác nước từ trên cao đổ xuống, hình thành khí thế của lời văn lời thơ.
LTS: Trên Sông Hương số tháng 10 - 2007, chúng tôi đã giới thiệu về công trình “La littérature en péril” (Nền văn chương đang lâm nguy) củaTzvetan Todorov - nhà triết học, mỹ học và nhà lý luận văn học nổi tiếng của Pháp.
Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.
(Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).
1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.
Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…
"Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.
(Trò chuyện trên Sông Hương)
Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.
PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…
Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)
Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN.
Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận: Lọt tai nghe suốt năm cung Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ: Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ?
Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...